CHƯƠNG XXXIV
ƠN TRỜI, TÔI ĐÃ MAY MẮN thoát khỏi cảnh khổ sai nhờ gặp một đồng đội, khi ấy anh đang chờ trong phòng khám sức khỏe định kỳ bên cạnh nhà thổ. Anh cho tôi hay rằng tình hình của tôi không còn nguy hiểm nghiêm trọng nữa, rằng Trung tá Hamel, chỉ huy sư đoàn, không những đã từ chối báo cáo sự mất tích của tôi mà còn bất chấp tất cả mà khăng khăng quả quyết rằng tôi không thể có ý đồ ăn cắp máy bay vì lý do tuyệt vời là tôi chưa bao giờ tới Bắc Phi trên bất kỳ chiếc máy bay nào do ông quản lý. Nhờ sự làm chứng đó, ở đây tôi xin tỏ lòng biết ơn với người Pháp này, ngay lập tức tôi không còn bị xem là một kẻ đào ngũ, mẹ tôi không phải lo lắng và quân cảnh không còn truy lùng tôi nữa. Tuy nhiên, tình hình mới dù có thuận lợi vẫn không cho phép tôi tái xuất hiện và buộc tôi phải sống trong lén lút. Vì không xu dính túi, những gì có tôi đã đưa hết cho má Zoubida cả rồi, nên tôi mượn anh bạn tôi ít tiền để mua vé xe khách đi đến Casa, nơi tôi định lên một chiếc tàu thủy nào đó sắp khởi hành.
Tuy nhiên tôi không thể cam chịu rời Meknès mà không lén lút đi thăm căn cứ không quân. Các bạn chắc đã nhận ra là tôi không dễ gì mà chia lìa được với những điều thân thuộc với mình, và tôi khó chịu đựng nổi ý nghĩ đã để lại chiếc áo da của mình tại châu Phi. Chưa bao giờ tôi cần chiếc áo này như lúc đó. Nó là chiếc vỏ bọc thân thương và đầy chở che, là cái mai đem lại cho tôi cảm giác an toàn và vững chãi, và vừa giúp tôi ra vẻ hơi hăm dọa, kiên quyết, thậm chí hơi nguy hiểm đối với những ai dám chạm nhẹ vào nó, nó vừa giúp tôi đi lại mà không bị ai để ý. Tuy nhiên, có lẽ không bao giờ tôi thấy lại nó nữa. Đến chỗ trú quân, trong căn phòng mình đã từng ở, tôi chỉ thấy một cái đinh trơ trọi: chiếc áo đã không cánh mà bay.
Tôi ngồi xuống giường rồi òa lên khóc. Tôi không biết mình đã khóc như thế trong bao lâu, mắt nhìn chiếc đinh trống trơn. Giờ thì người ta đã thực sự tước của tôi tất cả rồi.
Cuối cùng tôi ngủ thiếp đi, thể chất cũng như tinh thần kiệt quệ đến nỗi tôi ngủ suốt mười sáu tiếng đồng hồ, rồi thức dậy trong cùng tư thế với tư thế đã ngã xuống giường, chiếc mũ cát két đội sụp mặt. Tôi tắm nước lạnh rồi ra khỏi trại tìm xe khách đi Casa. Một điều bất ngờ dễ chịu đang chờ tôi trên đường: đúng thế, tôi gặp một người bán rong đang bán dưa chuột muối, cùng với các món ngon khác, trong những cái thẩu. Cuối cùng cũng có một bằng chứng cho thấy sức mạnh tình yêu, vốn thường dõi theo tôi, vẫn chưa từ bỏ tôi. Tôi ngồi trên sườn dốc và ngốn nửa chục dưa chuột cho buổi điểm tâm. Tôi cảm thấy khỏe hơn. Tôi ngồi một lúc trong nắng, khi thì muốn tiếp tục thưởng thức dưa chuột, khi thì nghĩ rằng trong tình cảnh bi kịch mà nước Pháp đang phải chịu đựng thì phải biết chứng tỏ mình khắc kỷ và đạm bạc. Tôi cảm thấy hơi khó khăn khi phải chia tay với người bán rong và những cái thẩu, thậm chí, trong những suy nghĩ mông lung của mình, tôi còn tự hỏi không biết ông ta có cô con gái nào mà tôi có thể lấy làm vợ không. Tôi dễ dàng tưởng tượng ra mình là một người bán dưa chuột muối bên một người bạn đời dễ thương và tận tụy cùng một ông nhạc chăm chỉ và biết ơn. Tôi lưỡng lự và cô đơn đến nỗi suýt để lỡ chuyến xe khách đi Casa. Dù sao tôi cũng đã bất ngờ hứng khởi vẫy chiếc xe dừng lại, và mang theo khá nhiều dưa chuột muối bọc trong một tờ báo, tôi nhảy lên xe ca, ôm chặt vào lòng những người bạn trung thành đó. Hiếu kỳ như đứa trẻ thơ có thể tiếp tục sống trong một người lớn.
Tôi đáp xuống quảng trường nước Pháp ở Casablanca, nơi gần như ngay lập tức tôi gặp hai học viên Trường Không quân, hai chuẩn úy tên là Forsans và Daligot, họ cũng như tôi đang tìm cách trốn sang Anh. Chúng tôi quyết định họp nhau lại rồi sau đó lang thang một ngày trong thành phố. Lối vào cảng có hiến binh canh gác còn trên phố không có lấy một bộ quân phục Ba Lan nào: chuyến tàu cuối cùng của quân đội Anh chắc là đã xuất phát từ lâu. Vào lúc mười một giờ đêm, chúng tôi thất vọng đứng dưới đèn đường. Người tôi lả đi. Tôi tự nhủ mình đã thực sự làm những gì có thể, có ai bắt mình phải làm những việc không thể bao giờ đâu. Tôi cũng cảm thấy có sai sót đâu đó. Thuyết định mệnh từ thảo nguyên Á châu bao la rộng lớn thức dậy trong tôi, thì thầm với tôi những lời thâm độc. Hoặc là có một số phận và nó muốn chơi thế nào thì chơi, hoặc là không có gì hết, và thế thì có nằm yên trong một góc cũng vậy thôi. Nếu có một sức mạnh bình tâm và công bằng đang thực sự dõi theo tôi thì nó chỉ việc biểu lộ chớ có sao đâu. Mẹ vẫn luôn nói với tôi về chiến thắng và vòng nguyệt quế mà tôi sắp đạt được; tóm lại là mẹ đã hứa với tôi một số điều: giờ thì đến lượt bà tự xoay xở lấy.
Tôi không biết mẹ đã xoay xở như thế nào, nhưng bỗng nhiên tôi thấy một hạ sĩ tốt bụng người Ba Lan không biết từ đâu đi về phía mình. Chúng tôi ôm chầm lấy anh ta: đó là lần đầu tiên tôi ôm hôn một hạ sĩ. Anh cho chúng tôi hay chiếc tàu chở hàng mang tên Oakrest của Anh chở một đội quân Ba Lan từ Bắc Phi sẽ nhổ neo vào lúc nửa đêm. Anh nói thêm là mình vào đất liền để mua một số thực phẩm cải thiện. Ít nhất là anh tin như vậy: tôi thì tôi biết sức mạnh nào đã thúc đẩy anh xuống tàu và đưa đường chỉ lối cho anh đến tận cột đèn đường lúc ấy đang rọi sáng nỗi u sầu của chúng tôi. Rõ ràng, cái khí chất nghệ thuật vốn thường khiến mẹ tôi, và đôi khi bằng một cách quá bi thương, luôn mong muốn kiến tạo tương lai của chúng tôi theo những quy chuẩn của dòng văn học mang tính cảm hóa đang tiếp tục được bộc lộ trong tôi cũng theo cách đó, và vì tôi chưa đến nỗi vỡ mộng mà quy phục trước nghệ thuật, nên tôi bướng bỉnh phỏng đoán quanh mình, thậm chí là trong cuộc sống, một cảm hứng sáng tạo nào đó chăm chăm sắp xếp số phận chúng tôi theo hướng tốt lành.
Như vậy là anh hạ sĩ xuất hiện rất đúng lúc. Forsans mượn của anh chiếc áo varơ, Daligot thì mượn anh chiếc mũ cát két; còn tôi, tôi chỉ việc cởi áo vest ra và giọng lanh lảnh ra lệnh cho những người bạn đồng hành của mình bằng tiếng Ba Lan, chúng tôi đi qua hàng hiến binh đang canh gác cửa lưới sắt ở cảng và cầu tàu mà không gặp chút khó khăn nào, rồi chúng tôi lên tàu, phải nói là với sự giúp đỡ của hai sĩ quan người Ba Lan, tôi giải thích cho họ tình hình của chúng tôi bằng một vài từ ngữ xúc động thích hợp qua thứ ngôn ngữ tuyệt đẹp của Mickiewicz:
– Nhiệm vụ liên lạc đặc biệt. Winston Churchill. Đại úy Nhà Đỏ, Phòng Nhì.
Chúng tôi qua một đêm yên tĩnh trên biển, trong hầm than, được những giấc mơ vinh quang phi thường ru ngủ. Thật không may, tôi bị đánh thức bởi một tiếng kèn hiệu như thể tôi sắp vào thành phố Berlin trên một con ngựa trắng.
Tinh thần lúc ấy khá tốt và thậm chí còn dễ dàng mang vẻ cầu kỳ hoa mỹ nữa là khác: các đồng minh người Anh trung thành đang mở rộng vòng tay chào đón chúng tôi; cùng giương cao những thanh kiếm và những nắm đấm về phía các vị thần thù địch, những kẻ vốn tưởng mình có thể biến con người thành một thân phận của kẻ thua cuộc, chúng tôi sẽ vĩnh viễn khắc lên bộ mặt xa hoa bạo ngược của họ vết sẹo phẩm cách của chúng tôi theo kiểu những người bảo vệ danh tiếng cổ xưa nhất.
Chúng tôi đến Gibraltar đúng lúc để được xem hải quân Anh trở về sau khi cao ngạo đánh đắm những đơn vị hải quân tinh nhuệ nhất của chúng tôi ở Mers-el-Kébir. Các bạn có thể tưởng tượng tin này có ý nghĩa với chúng tôi như thế nào: niềm hy vọng cuối cùng của chúng tôi đã đáp lại chúng tôi bằng một cú hèn hạ.
Trong không khí trong lành và rực rỡ mà Tây Ban Nha tiếp đón châu Phi, tôi chỉ cần ngước mắt lên là đủ để thấy trên đầu mình cái khối khổng lồ của Totoche, vị thần ngu dốt: đứng trong vũng tàu, hai chân giạng ra, trong làn nước trong xanh ngập gần đến mắt cá, đầu ngửa ra sau, Totoche ôm bụng, choán lấy cả bầu trời và cười vang - vị thần này đã đội chiếc mũ đô đốc Anh để hợp với hoàn cảnh.
Sau đó tôi nhớ đến mẹ tôi. Tôi tưởng tượng mẹ xuống đường và đi đập vỡ kính Tòa lãnh sự Anh tại Nice ở đại lộ Victor Hugo. Cái mũ đội lệch trên mái tóc bạc phơ, điếu thuốc ngậm trên môi, cây gậy lăm lăm trong tay, mẹ tôi kêu gọi người qua đường cùng tham gia thể hiện sự phẫn nộ.
Trong hoàn cảnh đó, vì không thể chấp nhận ở lại lâu hơn trên một con tàu Anh, và để ý thấy trong vũng tàu một chiếc tàu hộ tống có lá cờ tam tài phấp phới, tôi cởi quần áo và đâm đầu xuống nước.
Tôi rất đỗi hoang mang, không biết nên quyết định thế nào và nhờ cậy vào ai, tôi lao về phía lá cờ tổ quốc theo bản năng. Lúc đang bơi ý nghĩ tự sát lần đầu tiên xuất hiện trong tâm trí tôi. Nhưng tôi không phải là một người nhu mì và má trái của tôi không chìa ra cho bất cứ ai cả. Thế là tôi quyết định kéo theo mình tay đô đốc người Anh vừa hoàn thành việc tàn sát ở Mers-el-Kébir sang thế giới bên kia. Cách đơn giản nhất là xin được tiếp kiến hắn ta ở Gibraltar rồi dùng súng nã vào những tấm huân chương mà hắn ta đeo trên ngực sau một vài lời khen ngợi. Sau đó tôi sẽ vui vẻ để người ta bắn mình: đội hành quyết tồn tại không phải để làm tôi phật ý. Tôi thấy đội này rất hợp với kiểu đẹp của tôi.
Vì phải bơi hai cây số và nhờ làn nước mát lạnh nên tôi bình tâm lại ít nhiều. Suy cho cùng, tôi đâu phải đi chiến đấu vì nước Anh. Cú đáp trả hèn hạ của nước Anh dành cho chúng tôi thật khó mà tha thứ được, nhưng ít ra nó cũng chứng tỏ nước Anh quyết tâm tiếp tục chiến đấu. Tôi quyết định không thay đổi kế hoạch và phải sang Anh, bất chấp người Anh. Tuy nhiên tôi đã cách tàu Pháp hai trăm mét, và tôi cần thở chút ít trước khi tiếp tục bơi hai cây số quay trở lại.
Thế là tôi khạc nhổ vào không khí - giờ tôi vẫn đang bơi ngửa đây - và sau khi đã thoát khỏi đô đốc Anh, Huân tước Mers-el-Kébir, tôi tiếp tục bơi về phía con tàu hộ tống. Tôi bơi đến cầu thang và leo lên boong tàu. Một trung sĩ phi công đang ngồi trên boong gọt khoai. Anh ta nhìn tôi trần truồng từ dưới biển leo lên mà không hề biểu lộ chút ngạc nhiên nào. Khi đã chứng kiến nước Pháp bại trận và nước Anh đánh đắm chiến hạm của đồng minh thì không gì có thể khiến bạn ngạc nhiên được nữa.
– Ổn chứ? anh ta lịch sự hỏi tôi.
Tôi kể cho anh ta biết hoàn cảnh của tôi và đến lượt mình, tôi được biết là con tàu hộ tống này sang Anh, chở mười hai trung sĩ phi công đi gặp tướng de Gaulle. Chúng tôi đồng tình lên án thái độ của hải quân Anh và cũng nhất trí kết luận là người Anh sẽ tiếp tục chiến đấu và sẽ không chịu ký hiệp ước đình chiến với quân Đức, suy cho cùng, đây là điều duy nhất đáng kể.
Trung sĩ Caneppa - Trung tá Caneppa - Huân chương Giải phóng, Huân chương Bắc đẩu Bội tinh hạng ba, mười hai lần được tuyên dương, mười tám năm sau đã ngã xuống trên chiến trường tại Algérie, sau khi đã chiến đấu không mệt mỏi trên khắp mọi mặt trận nơi nước Pháp từng đổ máu - vậy là Trung sĩ Caneppa đề nghị tôi ở lại để khỏi phải đi tàu dưới cờ của người Anh, anh cũng khẳng định anh càng vui mừng về sự có mặt của tôi hơn vì có thêm một tân binh để làm công việc mệt nhọc là gọt khoai. Tôi suy nghĩ, với vẻ trịnh trọng thích hợp, về yếu tố mới mẻ và bất ngờ này, rồi quyết định, dù phẫn nộ với người Anh thế nào chăng nữa, tôi cũng vẫn thích vượt biển dưới lá cờ của họ hơn là phải làm những công việc nội trợ, vốn trái ngược với con người đầy cảm hứng như tôi. Thế là tôi thân mật ra hiệu chào anh rồi lại lao xuống sóng biển.
Đi từ Gibraltar đến Glasgow mất mười bảy ngày và tôi để ý thấy tàu còn chở những kẻ “đào ngũ” người Pháp khác. Chúng tôi làm quen với nhau. Có Chatoux, sau này bị bắn trên biển Bắc; có Gentil, người đã ngã xuống cùng chiếc máy bay Hurricane của mình trong một trận đánh một chọi mười; có Loustreau, ngã xuống ở Crète; có anh em nhà Langer trong đó đứa em là phi công của tôi trước khi bị sét đánh chết giữa lúc đang bay trên bầu trời châu Phi còn người anh vẫn sống; có Mylski Latour, người đã đổi tên thành Latour Prendsgarde, và hình như đã rơi xuống trong chiếc máy bay Beaufighter của mình ở ngoài khơi Na Uy; có Rabinovitch người Marseille, thường gọi là Olive, chết khi đang luyện tập; có Charnac, người đã ôm bom nhảy xuống Ruhr; có Stone, một con người điềm tĩnh và đến giờ vẫn lái máy bay; còn có nhiều người khác, có những cái tên giả, phịa ra để bảo vệ gia đình của họ tại Pháp, hoặc đơn giản để khép quá khứ lại, nhưng trong số tất cả những anh lính trốn nghĩa vụ có mặt trên tàu Oakrest, đặc biệt có một người, tên của người này sẽ luôn trả lời tất cả những câu hỏi, tất cả những nghi ngờ và tất cả những thất vọng trong lòng tôi.
Anh ấy tên là Bouquillard, ba mươi lăm tuổi, hơn tuổi chúng tôi rất nhiều. Người hơi nhỏ, dáng hơi còng, đầu luôn đội mũ bê rê, đôi mắt nâu, khuôn mặt dài dài vẻ thân thiện, sự điềm tĩnh và nhẹ nhàng của anh ẩn chứa một ngọn lửa, một trong những ngọn lửa thỉnh thoảng vẫn biến nước Pháp thành nơi rạng rỡ nhất thế giới.
Anh trở thành con “át chủ bài” người Pháp đầu tiên trong trận Anh quốc, trước khi ngã xuống sau sáu lần lập công, và hai mươi phi công đã đứng trong phòng tác chiến ngước mắt lên cái họng đen ngòm của loa phóng thanh mà nghe anh hát điệp khúc vĩ đại của người Pháp cho đến khi tiếng nổ cuối cùng vang lên, và khi tôi đang nguệch ngoạc những dòng này, trước đại dương với thứ tiếng ồn ào át hết không biết bao nhiêu tiếng gọi khác, bao nhiêu thách thức khác, thì tiếng hát tự phát ra từ miệng tôi, thế là tôi cố làm hồi sinh một quá khứ, một giọng hát, một người bạn, thế là anh sống lại, đứng dậy và mỉm cười bên cạnh tôi, tôi cần toàn bộ sự hiu quạnh ở Big Sur để dành chỗ cho anh.
Không có đường phố nào ở Paris mang tên anh, nhưng đối với tôi, tất cả các đường phố trên khắp nước Pháp đều mang tên anh.