← Quay lại trang sách

- VIII - Thành phố New York-Ngày 07 tháng 9 năm 2013

Chúa hỡi, được người ta khao khát mới tuyệt làm sao.

Dù đi đến đâu, anh đều có thể cảm nhận được tiếng rì rầm, sự chú ý đổ dồn vào mình. Henry ngả theo những sự chú ý, những nụ cười, hơi ấm và ánh sáng. Lần đầu tiên anh thực sự hiểu khái niệm đắm say trong quyền lực.

Nó như thể trút đi gánh nặng đè lên vai quá lâu tới mức tê mỏi. Sự nhẹ nhõm đột ngột, vút tới như không khí lùa vào trong ngực, như ánh nắng sau cơn mưa.

Thật dễ chịu khi là kẻ lợi dụng, thay vì bị lợi dụng.

Là kẻ được thay vì người mất.

Dễ chịu làm sao. Dù không nên, anh biết chứ, nhưng nó là sự thật.

Anh xếp hàng trước quán Roast, cực kỳ muốn một cốc cà phê.

Mấy ngày vừa qua là một cơn mơ hồ, đêm thức muộn nhường chỗ cho buổi sáng lạ kỳ, mỗi giây phút đều căng tràn nhờ niềm vui chuếnh choáng khi là kẻ được người ta ham muốn, được biết rằng dù người ta đang nhìn vào đâu thì đều tốt, đều tuyệt vời, hoàn hảo.

Anh thật hoàn hảo.

Nó không chỉ là thứ sức hút thẳng thắn như tình dục, không phải lúc nào cũng vậy. Giờ mọi người đều đổ dồn vào anh, ai cũng muôn làm vệ tinh xoay quanh quỹ đạo, nhưng lý do tại sao thì lại khác nhau. Đôi lúc chỉ là ham muốn đơn giản, nhưng có những lúc lại phức tạp hơn nhiều. Đôi lúc là nhu cầu thẳng thắn, nhưng có những lúc anh lại không thể đoán họ thấy gì khi nhìn vào anh.

Thực ra, thứ duy nhất khó chịu là ánh mắt họ. Làn sương kéo tới bao phủ chúng, dày đặc đóng lại thành giá, thành băng. Một lời nhắc nhở thường trực rằng cuộc đời mới này không thật sự bình thường, không phải hoàn toàn là thật.

Nhưng thế là đủ.

“Tiếp theo!”

Anh bước tới trước, ngước lên và thấy Vanessa.

“Ồ, xin chào,” anh nói.

“Anh không gọi.”

Nhưng cô không có vẻ gì là tức giận hay bực tức. Nếu phải nhận xét, thì giọng của cô quá tươi sáng, trêu đùa, nhưng là kiểu đùa được dùng để che đi nỗi xấu hổ. Đáng ra anh phải biết, anh từng dùng giọng đó cả tá lần để che giấu nỗi đau của chính bản thân.

“Xin lỗi cô,” anh nói, mặt ửng đỏ. “Tôi không chắc mình có nên gọi không.”

Vanessa láu lỉnh cười. “Cả tên và số vẫn quá ẩn ý ư?”

Henry cười, đưa điện thoại qua bên kia quầy. “Gọi cho tôi nhé,” anh nói, còn cô thì bấm số của mình, rồi nhấn nút Gọi. “Đó,” Henry lên tiếng, lấy điện thoại lại, “giờ thì tôi không còn cái cớ nào nữa rồi.”

Anh thấy mình như một thằng ngốc khi nói thế, chẳng khác nào một đứa trẻ trích dẫn thoại từ phim ảnh, nhưng Vanessa chỉ đỏ mặt và cắn môi dưới. Anh thầm thắc mắc điều gì sẽ xảy ra nếu anh đề nghị cô ra ngoài với mình, liệu cô có tháo tạp dề và chui ra khỏi quầy ngay lập tức, nhưng anh không thử mà chỉ nói, “Tôi sẽ gọi.”

Cô ấy đáp, “Tốt hơn là vậy.”

Henry mỉm cười, quay đi. Anh gần ra tới cửa thì nghe thấy tên mình.

“Cậu Strauss.”

Dạ dày Henry quặn lên. Anh nhận ra giọng nói này và có thể hình dung chiếc áo vest dạ của người đàn ông lớn tuổi, mái tóc muối tiêu và vẻ thất vọng khi ông khuyên Henry rời khoa, rời trường và tìm xem đam mê của anh ở đâu, vì rõ ràng nó không có ở đó.

Henry cố cười, tự thấy mình đã thất bại.

“Trưởng khoa Melrose,” anh lên tiếng, quay lại để đối mặt với người đã đẩy anh ra khỏi đường lớn.

Ông ấy đầy rồi, bằng xương bằng thịt và bằng vải dạ. Nhưng thay vì vẻ khinh miệt mà Henry đã quá quen, vị trưởng khoa lại có vẻ vui mừng. Nụ cười tách đôi bộ râu xám được chăm chút tỉ mỉ.

“May mắn làm sao,” ông nói. “Cậu chính là người tôi muốn gặp.”

Henry khó lòng tin được điều ấy, cho tới khi anh để ý thấy làn khói mỏng cuộn trong mắt người đàn ông kia. Anh biết mình nên tỏ ra lịch sự, nhưng anh chỉ muốn bảo trưởng khoa biến đi cho khuất mắt, nên anh lược bỏ những điểm khác biệt giữa nên và muốn rồi hỏi, “Tại sao ạ?”

“Trường Thần học đang còn một vị trí trống. Tôi nghĩ cậu hoàn toàn phù hợp.”

Henry suýt cười. “Chắc thầy nói đùa chứ ạ.

“Không hề.”

“Em chưa hoàn thành khóa học tiến sĩ. Chính thầy đã đánh trượt em mà.”

Vị trưởng khoa giơ một ngón tay lên. “Tôi đâu đánh trượt cậu.” Henry xù lông. “Thầy đe dọa sẽ làm vậy, nếu em không rời khoa.”

“Tôi biết,” ông nói, trông hết sức hối tiếc. “Tôi sai rồi.”

Đây là ba từ anh biết chắc người đàn ông này sẽ không bao giờ nói ra. Henry muốn tận hưởng nó, nhưng không thể.

“Không,” anh đáp, “thầy đã đúng. Em không phù hợp. Em không cảm thấy vui vẻ khi ở đó. Và em cũng không muốn quay lại.”

Đó là một lời nói dối. Anh nhớ cơ chế, nhớ con đường, nhớ mục tiêu. Có thể nó không hoàn toàn phù hợp, nhưng cái gì cũng thế.

“Hãy tới phỏng vấn,” Trưởng khoa Melrose nói, đưa danh thiếp ra. “Hãy để tôi khiến cậu đổi ý.”

*

“Cậu tới muộn đấy.”

Bea đang chờ trên bậc cửa tiệm sách.

“Xin lỗi,” anh nói, mở khóa. “Đây vẫn không phải thư viện đâu nhé,” và nói thêm khi cô đập tờ năm đô-la lên quầy và biến mất sau dãy nghệ thuật. Cô đáp lại bằng tiếng ừ hứ hờ hững, và anh có thể nghe rõ tiếng cô rút sách từ trên giá.

Bea là người duy nhất chưa thay đổi, người duy nhất không cư xử khác với anh.

“Này,” anh gọi, theo cô đến giữa lối đi. “Cậu có thấy mình trông kỳ quặc không?”

“Không,” cô đáp, nghiên cứu những giá sách.

“Bea, nhìn mình đi.”

Cô quay lại, soi mói anh từ đầu tới chân.

“Ý cậu là ngoài vệt son môi trên cổ à?”

Henry đỏ mặt, lau nó đi. “Ừ,” anh nói, “ngoài cái đó ra.”

Cô nhún vai. “Chẳng có gì mấy.”

Nhưng nó có ở đó trong mắt cô ấy, thứ ánh sáng không thể bị nhầm lẫn được, lớp màng mỏng manh và lấp lánh dường như lan ra khi cô ấy quan sát anh. “Thật ư? Không có gì?”

Cô ấy rút một cuốn sách ra khỏi giá. “Henry, câu muốn tớ nói gì đây?” Cô ấy hỏi lại, dừng một giây để tìm kiếm. “Cậu trông giống cậu.”

“Vậy là cậu không…” Anh không biết nên hỏi thế nào nữa. “Cậu không muốn mình, nhỉ?”

Bea quay lại, nhìn anh một lúc lâu, rồi phá ra cười.

“Xin lỗi nhé cưng,” cô thốt ra khi đã thở được. “Đừng hiểu lầm. Cậu dễ thương đấy. Nhưng gái này vẫn đồng tính nhé.”

Ngay khi cô nói thế, anh thấy đột ngột và cực kỳ nhẹ nhõm.

“Vụ này là sao?” Cô hỏi.

Mình đã lập giao kèo vời quỷ và giờ thì bất cứ khi nào ai đố nhìn mình, họ sẽ chỉ thấy điều họ muốn. Anh lắc đầu. “Không có gì. Bỏ đi.”

“Tốt,” cô thêm một cuốn sách nữa vào chồng sách đang ôm trên tay, “Mình nghĩ mình tìm được luận văn mới rồi.”

Cô ôm chồng sách lại quầy, rải chúng lên trên những cuốn sổ và biên lai. Henry nhìn cô lật mở sách cho tới khi tìm thấy thứ mình đang tìm trong mỗi cuốn, sau đó lùi lại để anh có thể thấy chúng.

Ba bức chân dung, cả ba đều mình họa một người phụ nữ trẻ, dù rõ ràng thuộc về ba thời đại và trường phái khác nhau. “Mình đang thấy điều gì?” Anh hỏi.

“Tớ gọi cô ấy là bóng ma trong khung tranh.”

Một bức là bản phác họa chì, những đường nét thô ráp chưa được hoàn thiện. Ở bức này, người phụ nữ nằm sấp, quấn quanh những tấm vải. Mái tóc cô ấy tỏa ra xung quanh, gương mặt chỉ là những mảng tối với vài đốm tàn nhang mờ nhạt rải trên hai gò má. Tựa để được viết bằng tiếng Y.

Ho Portato le Stelle a Letto

Nghĩa tiếng Anh được viết ở bên dưới.

Tôi mang những vì sao lên giường ngủ.

Bức thứ hai có tiêu đề tiếng Pháp, một bức chân dung trừu tượng hơn với hai màu lam và lục sống động của trường phái Ấn tượng. Người phụ nữ ngồi trên bờ biển với một cuốn sách úp xuống lớp cát bên cạnh. Cô ấy ngoái lại nhìn người họa sĩ, chỉ lộ ria khuôn mặt, những đốm tàn nhang chỉ đậm hơn ánh sáng một chút, thiếu đi sắc màu.

La Sirène, nó được gọi như vậy.

Nhân ngư.

Bức cuối cùng là một bản khắc nông, một tác phẩm điêu khắc được chụp lại dưới ánh sáng, đường khắc hằn sâu vào mặt gỗ anh đào.

Chòm sao.

“Cậu thấy gì?” Bea hỏi.

“Những bức chân dung.”

“Không,” cô nói, “là những bức chân dung của cùng một cô gái”

Henry nhướn mày. “Khó có thể lắm.”

“Nhìn góc quai hàm, đường nét sống mũi và những đốm tàn nhang đi. Đếm đi.”

Henry làm theo. Trong mỗi bức ảnh đều có chính xác bảy đốm.

Bea chạm vào bức thứ nhất và thứ hai. “Bức ở Ý ra đời vào đầu thế kỷ mười chín. Bức ở Pháp cách năm mươi năm sau đó. Còn bức này,” cô ấy tiếp lời, gõ vào tầm ảnh chụp bản chạm khắc. “Bức này thuộc về những năm sáu mươi.”

“Có thể là một bức tranh đã truyền cảm hứng cho những bức khác,” Henry nói. “Chẳng phải có truyền thống… Mình quên nó gọi là gì rồi, nhưng về cơ bản giống kiểu gọi điện thoại mà có hình ảnh ấy? Một nghệ sĩ thích một thứ gì đó, rồi một nghệ sĩ khác thích nghệ sĩ đó, rồi cứ thế nữa? Giống một hình mẫu ấy.”

Nhưng Bea phẩy tay gạt đi. “Chuyện như vậy chỉ đúng trong các bảng từ đồng nghĩa và những bộ truyện ngụ ngôn về thú vật thôi, không đúng với các trường phái nghệ thuật chính thống. Việc này giống như đặt cô gái với chiếc khuyên tai ngọc trai vào phim của Warhol và tranh của Degas mà không bao giờ thấy trong tranh Vermeer vậy. Kể cả nếu cô ấy là một hình mẫu thì thực sự “hình mẫu” này đã ảnh hưởng tới nghệ thuật trong hàng thế kỷ. Cô ấy là mảnh nối giữa các thời đại. Vậy…”

“Vậy…” Henry lặp lại.

“Vậy, cô ấy là ai?” Mắt Bea sáng rực, giống như Robbie mỗi lần cậu ấy có một buổi biểu diễn thành công hay uống cạn một lon coca. Henry không muốn khiến bạn mình mất hứng, nhưng rõ ràng là cô ấy đang chờ anh nói gì đó.

“Thôi được rồi,” anh nhẹ nhàng mào đầu. “Nhưng Bea à, lỡ như cô ấy chẳng là ai cả thì sao? Dù những bức tranh này đều phỏng theo cùng một người, lỡ như chỉ là người họa sĩ đầu tiên tưởng tượng ra cô ấy?” Bea nhíu mày, lập tức lắc đầu. “Nghe này,” anh tiếp tục, “chẳng ai mong cậu tìm được đề tài luân văn nhiều hơn tớ đâu. Đó là vì tốt cho cả cửa hàng này, cũng như tinh thần của cậu. Chủ đề này nghe hay đấy, nhưng chẳng phải đề xuất gần nhất của cậu bị loại vì quá khác thường.”

“Mật truyền.”

“Chính thế,” Henry tiếp lời. “Nếu một chủ đề như Chủ nghĩa hậu hiện đại và ảnh hưởng của nó đối với Kiến trúc New York bị coi là mật truyền, thì cậu cho rằng Trưởng khoa Parrish sẽ nghĩ gì về chủ đề này?”

Anh chỉ về phía những quyển sách đang mở, gương mặt với những chấm tàn nhang tỏa sáng trên từng trang giấy.

Bea im lặng nhìn anh một lúc lâu, rồi nhìn những cuốn sách.

“Khốn kiếp!” Cô gào lên, chộp lấy một trong số những cuốn sách khổng lồ và lao ra ngoài.

Henry nhìn theo cô, thở dài. “Không phải thư viện mà,” anh gọi với theo và xếp những gì bị bỏ lại lên giá.