Chương 21
Avery rõ ràng là một thị tứ khá buồn tẻ của hạt Kent, với con phố chính High Street rộng rãi, uốn lượn từ sườn đồi thoai thoải hướng về bờ sông Medway bên dưới. Nổi bật nhất ở đây là nhà thờ Norman cũ kỹ, St. Andrews, tọa lạc giữa một khu nghĩa địa cổ xưa nhưng được gìn giữ cẩn thận, với cỏ được cắt tỉa gọn gàng, điểm xuyết đây đó những tấm bia mộ xám rêu phong. Ở phía nam nhà thờ là nhà của mục sư - một ngôi nhà gạch đỏ dịu dàng, xây từ thế kỷ trước, kích thước cân xứng, toát lên vẻ dễ chịu, với cặp cửa sổ hai tầng duyên dáng nhô ra ngoài từ mỗi bên cổng vòm nhỏ màu trắng.
Đức cha William Thornton tiếp họ trong phòng làm việc nhìn ra khu vườn hoa cỏ mọc um tùm, chẳng hề được cắt tỉa, trải dài tới bờ rào nhà xứ. Phòng làm việc đó đúng là nơi trú ẩn của bậc học giả, với tầng tầng lớp lớp các trang viết tay và những ấn phẩm bìa da cổ xưa xếp đầy trên vô số giá sách và tràn cả xuống các mặt bàn và xuất hiện rải rác khắp phòng.
Sebastian và Lovejoy thấy Đức cha đang ngồi trong một chiếc ghế bọc da màu xanh lá cây bên cạnh lò sưởi trống không. Đó là một người đàn ông vóc dáng mỏng manh, ốm yếu, mái tóc màu xám lưa thưa và cái mũi to, càng thêm nổi bật trên khuôn mặt nhờ sự hốc hác từ hai gò má. Một tấm đệm phủ lên chân Đức cha. Ông không đứng đợi họ ở cửa ra vào.
“Hai ngài phải thứ lỗi cho tôi vì đã không thể đứng dậy để tiếp đón được,” Đức cha lên tiếng khi bà quản gia trung tuổi đội mũ trùm đầu đưa Sebastian và Lovejoy vào phòng gặp ông. “Tôi e là đôi chân không còn hỗ trợ được gì cho tôi nữa. Nhưng làm ơn đừng để tình trạng ốm yếu này của tôi khiến các ông cho rằng mình không được chào đón. Tôi không thường xuyên có khách từ London tới thăm. Xin mời ngồi. Bà Ross, pha trà cho chúng tôi.”
“Xin hãy chấp thuận lời tạ lỗi của chúng tôi vì đã quấy quả Đức cha,” Lovejoy nói trong lúc ngồi xuống chiếc sofa cũ nhưng rất êm ái gần đó. “Nhưng chúng tôi phải hỏi vài câu hỏi về con trai Đức cha.”
Từ chối lời mời an tọa, Sebastian đi về phía cửa sổ nhìn ra vườn, đứng dựa một bên hông vào bậc dưới khung cửa. Anh quan sát thấy gò má Đức cha Thornton trĩu xuống, đôi môi run rẩy một chút trước khi ông bặm chặt môi lại.
“Đó có phải là vì những vụ án mạng gần đây ở London? Các ngài nghĩ có mối liên hệ nào đó sao?”
“Có thể lắm,” Lovejoy đáp.
Một bàn tay xương xẩu, chằng chịt gân xanh của Đức cha siết chặt lấy mép tấm thảm trùm lên chân ông. “Bà Ross đã nói với tôi về người bị sát hại mới đây nhất, con trai nhà Stanton. Kinh khủng, thực sự quá kinh khủng.”
“Đức cha có thể nói gì cho tôi biết về ngày con trai Cha biến mất, thưa Cha Thornton?”
Vị mục sư ngồi lặng thinh trong giây lát. Khi nói, giọng ông vang lên nhỏ nhẹ và đều đều một cách lạ thường, như thể ông chỉ có thể lên tiếng khi đã khóa kín mọi cảm xúc liên quan tới câu chuyện mà ông sắp chia sẻ. “Nicholas lúc đó đang học ở Cambridge nhưng thằng bé về nhà nghỉ lễ Phục sinh. Nó thường dành rất nhiều thời gian mỗi lần về ở khu rừng sau nhà và đó là nơi nó ra đi buổi sáng hôm đó. Hôm ấy là thứ tư. Chỉ còn vài ngày nữa, con trai tôi sẽ trở lại trường.”
“Cậu ấy đi câu cá?”
“Nó mang theo một chiếc cần câu nhưng tôi nghĩ có thứ gì đó trong dáng vẻ của thằng bé, khiến Nicholas trông có vẻ đầy hứa hẹn về một buổi đi câu tốt đẹp.” Ánh vui vẻ sáng lên trong mắt Đức cha nhưng rồi vụt tắt trong khoảnh khắc. “Nó nói nó sẽ về trong khoảng một hoặc hai tiếng nữa, đúng vào giờ bữa ăn nhẹ buổi chiều.”
“Nhưng cậu ấy đã không quay về?”
“Đúng vậy. Ban đầu tôi không thấy lo lắng gì cả. Các ngài biết các chàng trai trẻ thế nào rồi đấy. Nhưng khi trời càng ngả về chiều, tôi càng lúc càng thấy lo. Nicholas không thường bất cẩn như vậy. Khi bóng tối bắt đầu che phủ ánh mặt trời, cuối cùng, tôi quyết định đi tìm con. Tôi thấy cần câu và đôi giày của nó bên dòng suối, gần nơi câu cá yêu thích của nó. Nhưng không còn gì khác nữa. Như thể nó đã hoàn toàn biến mất.”
“Có dấu hiệu của một cuộc vật lộn không?”
“Không. Một vài người đến từ thị trấn đã tình nguyện giúp tôi tìm con trong rừng và cả khu vực lân cận,” Đức cha liên tục đổi chân trong khi nói. “Khi đó, tôi không ốm yếu như bây giờ, các ngài biết đấy. Chúng tôi tản ra, tìm kiếm toàn bộ khu vực đó nhưng không phát hiện được gì. Mãi cho tới tận buổi sáng hôm sau.”
“Khi xác cậu ấy được phát hiện trong khu nghĩa địa.” Môi dưới Đức cha hơi run lên. “Đúng vậy.”
Ngài Henry tỏ ra lưỡng lự, như thể đắn đo không biết có nên tiếp tục hay không. Ông liếc nhìn Sebastian, lúc này đang lên tiếng. “Liệu con trai Đức cha có quen biết gì với Dominic Stanton hay Barclay Carmichael không?”
Đức cha mở to mắt. “Không. Theo như những gì tôi biết được. Nicholas học tại trường Cambridge, khoa thần học. Tôi không thể hình dung nó lại có thể quen biết một trong hai người đó.”
“Xin hãy nói cho chúng tôi biết về con trai Cha, thưa Đức cha,” Ngài Henry lên tiếng, giọng ông mềm mỏng một cách khác thường. “Cậu ấy trông như thế nào?”
Một nụ cười buồn thoáng trên môi vị mục sư và mang đến chút lấp lánh của sự sống lên đôi mắt già nua mệt mỏi. “Nó là một trong những đứa trẻ bản tính tò mò nhất mà tôi từng biết, luôn đặt câu hỏi, luôn muốn biết mọi sự vận hành ra sao.”
“Còn khi cậu ấy trưởng thành?”
“Nó có thay đổi đôi chút. Nhưng xét trên nhiều khía cạnh, nó vẫn là một đứa trẻ. Chỉ là không phải trong tâm trí thôi,” vị mục sư vội thêm vào. “Nó lúc nào cũng rất thông minh và xuất sắc. Nhưng chỉ trong phong thái và niềm yêu thích của nó mà thôi.”
“Cha có những người con khác chứ?”
“Không.”
Sebastian nhìn qua khu vườn bỏ hoang tới một đám ruộng nhỏ và phía bên kia là vạt rừng nơi chàng trai trẻ mất tích.
“Cha có nghĩ ai đó có thể thù hằn với con trai mình không?” Ngài Henry hỏi, “dù là thật hoặc do tưởng tượng cũng được?”
Đức cha hít vào một hơi thật sâu khiến lồng ngực mỏng dính của ông phồng lên, rồi trút một tiếng thở dài. “Tôi không biết. Nicholas là một người trầm tính. Trầm tính và luôn nghiêm túc. Vợ tôi từng rất lo lắng về thằng bé. Bà ấy vẫn nói, nó thoải mái và dễ chịu hơn khi ở bên những cuốn sách hơn là khi tiếp xúc với người khác.” Một lần nữa, nụ cười buồn lại lướt nhẹ trên môi ông và rồi tan biến rất nhanh sau đó, khiến Đức cha trông càng trở nên thê thảm hơn trước. “Tôi tạ ơn Chúa mỗi ngày vì bà ấy đã không còn sống để mà chứng kiến điều kinh khủng đã xảy ra với thằng bé.”
“Vợ Cha đã mất?”
Đức cha gật đầu buồn bã. “Bà ấy qua đời hồi tháng một năm nay, ngay sau lễ Giáng sinh.”
Sebastian giữ ý tứ để không liếc sang nhìn Lovejoy. Anh từng nghe nói vị chánh thẩm đã có vợ. Một người vợ và cả một đứa con, nhưng cả hai đã mất từ lâu.
“Chúng tôi đồng cảm sâu sắc với Cha,” Lovejoy khẽ nói.
Sebastian lại hướng ánh mắt ra khung cảnh bên ngoài cửa sổ. Ở phía bắc khu vườn, nơi có con đường lát gạch và những bụi hoa hồng, cúc vạn thọ, cỏ thi, oải hương chen nhau mọc um tùm là Nhà thờ St. Andrews. Qua một lỗ hổng trên hàng rào cây thủy tùng khá cao, anh có thể nhìn thấy trụ tường thấp lè tè từ thời trung cổ và ngọn tháp vuông xưa cũ của nhà thờ đang vươn mình một cách ủ dột lên bầu trời xanh biếc tháng chín. Khu vực nghĩa trang là phần mở rộng của một đồng cỏ được chăm sóc cẩn thận, gọn gàng hơn nhiều so với khu vườn của chính vị mục sư. Nơi đó tập trung những ngôi mộ và bia đá cổ màu xám nằm rải rác khắp nghĩa trang. Anh băn khoăn không biết liệu Đức cha có phải là một trong những người phát hiện ra xác con trai mình mặc dù đó không phải là câu hỏi mà Sebastian cảm thấy thôi thúc muốn hỏi.
“Cha có phiền không nếu chúng tôi nói chuyện với người đã khám nghiệm thi thể con trai Cha?”
Đức cha tỏ ra rất ngạc nhiên trước lời đề nghị của Sebastian nhưng vẫn trả lời một cách sẵn lòng. “Không, tất nhiên là không rồi. Đó là Bác sĩ Newman. Bác sĩ Aaron Newman. Ông ấy sống ở Avery này, chỉ băng qua đồng cỏ là tới. Có thể ông ấy sẽ giúp được hai ngài theo cái cách mà tôi không thể.” Đức cha chợt dừng lại. “Tôi vẫn luôn tự nhắc nhở bản thân rằng, ‘Sự báo thù thuộc về ta, Chúa đã phán vậy’. Nhưng nó chẳng giúp ích được gì. Kẻ đã gây ra chuyện đó cho con trai tôi…” Giọng Đức cha như vỡ vụn. Ông ngừng lại để nuốt khan, rồi nói khẽ tới mức gần như thì thầm. “Bất cứ ai gây ra chuyện đó cho con trai tôi đều là ác quỷ. Đem đến cái kết bi thảm như vậy cho một chàng trai ngây thơ tội nghiệp mới mười chín tuổi…” Giọng nói yếu ớt một lần nữa khiến Đức cha không thể tiếp lời và lần này, vị mục sư không có ý định hoàn thành nốt câu nói còn dang dở.
Lovejoy đứng lên một cách vụng về. “Xin thứ lỗi cho chúng tôi vì đã mạo phiền tới Cha, thưa Đức cha. Chúng tôi sẽ không làm phiền Cha thêm nữa.”
Đức cha đưa một bàn tay run rẩy lên quẹt ngang qua mắt. “Nhưng hai ngài phải ở lại dùng trà đã chứ.”
Vị chánh thẩm khẽ cúi người chào. “Cảm ơn Cha nhưng chúng tôi xin phép.”
Sebastian rời khỏi khung cửa sổ, cảm nhận được nỗi giận dữ trào dâng. Mối liên hệ có thể là gì đây, giữa cậu con trai nghiêm túc, luôn chuyên chú học hành và con trai một quý tộc nhiều tiếng xấu như Dominic Stanton hay một thanh niên đô thành tinh tế như Bar- clay Carmichael? Anh nhớ điều Kat đã nói về sự ngẫu nhiên của các vụ giết người khiến cho bất cứ ai cũng có thể trở thành nạn nhân. Anh tự hỏi liệu đó có phải là lý do anh cảm thấy nôn nóng đến thế, muốn tìm ra mối liên hệ nào đó giữa ba chàng trai trẻ bị sát hại: bởi vì việc thiếu liên quan giữa những vụ án mạng khủng khiếp này khiến cho hành vi của tên sát nhân, ở một mức độ nào đó, càng trở nên tàn bạo và đáng sợ hơn rất nhiều.
“Cha cũng là người ở vùng này phải không, thưa Cha Thornton?” anh bất ngờ hỏi.
Đức cha lắc đầu. “Tôi đến từ Nayland, ở vùng Đông Suffolk. Gần Ipswich. Người chú của vợ tôi đã giới thiệu cho tôi nơi đây. Khi tôi còn trẻ, tôi luôn có ý định dâng hiến đời mình cho công việc truyền đạo, mang theo những tin tức tốt lành của đức Chúa tới những người ngoại đạo bất hạnh đang đắm chìm trong tội lỗi và bóng đêm ở những vùng bị bỏ quên trên thế giới. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc có một giáo xứ của riêng mình, nói gì tới một ân huệ lớn tới cỡ này.”
Sebastian chợt cảm thấy hứng thú. “Cha đã bao giờ đi truyền đạo chưa?”
Cha Thornton ngồi thẳng lưng dậy trên ghế. “Thực tế là có. Tôi dành sáu năm ở vùng Sừng châu Phi5* trước khi kết hôn. Sau đó, tôi cùng vợ có dịp đi truyền đạo khoảng chín năm trước, khi tôi có thể trao giáo xứ mình dưới bàn tay coi sóc của một cha phó.”
* Vùng Đông Bắc Phi.
Chín năm trước, Sebastian nghĩ, Nicholas Thornton khi đó 10 tuổi. “Còn Nicholas thì sao?” Sebastian hỏi. “Cậu ấy có đi cùng Cha không?”
“Ồ không. Nicholas khi đó đang ở Harrow. Nó chưa bao giờ đi đâu xa cả, dù là một chuyến đi chơi. Vợ tôi rất nghiêm ngặt trong vấn đề sức khỏe trẻ em và bà ấy sợ thằng bé sẽ bị bệnh trong điều kiện khí hậu độc hại như vậy. Thời gian nghỉ, nó ở cùng anh trai vợ tôi.”
“Chính xác thì nơi mà Cha và bà Thornton đã đi truyền đạo là ở đâu?” Ngài Henry hỏi, mặc dù Sebastian biết rõ câu trả lời ngay trước khi Đức cha lên tiếng.
“Ấn Độ.”
“Một sự trùng hợp, chắc thế rồi?” Ngài Henry nói khi Sebastian kể về cuộc đối thoại với Ngài Humphrey Carmichael. Hai người băng qua đồng cỏ trong làng, hướng về phía ngôi nhà màu trắng của bác sĩ. Trên đường đi, một bầy ngỗng trắng nhao nhác ào tới, kêu la ầm ĩ, ngay trước mắt họ. Ánh nắng mặt trời sáng rực trên những bộ lông lấp lánh. “Tôi dám nói rằng có tới hàng ngàn người Anh đã tới Ấn Độ vào một thời điểm nào đó trong đời. Còn ngài?”
“Tôi cũng nghĩ vậy.”
“Thì đó. Ngài thấy rồi phải không? Ngoài ra, chúng ta vẫn không biết liệu Nam tước Stanton đã từng đến Ấn Độ hay chưa.”
“Đúng, chúng ta vẫn chưa biết.” Sebastian nhìn qua một dãy nhà đá nửa ẩn mình bên dưới những bụi hoa hồng leo đang trình diễn màn bung nở rực rỡ cuối cùng của mùa thu. “Nói gì thì nói, nếu tôi có con trai, tôi nghĩ mình cũng phải bắt đầu lo lắng đi là vừa.”