Chương 25, 26
Thứ tư, ngày 18 tháng 9 năm 1811
Sáng sớm hôm sau, Ngài Henry Lovejoy vừa mới rời khỏi giường ngủ thì một viên cảnh sát gõ mạnh vào cửa phòng ông.“Có chuyện gì thế Bernard?” Henry hỏi khi viên cảnh sát lao vào phòng, mang theo mình hơi sương ẩm ướt, giá lạnh của buổi sớm.
“Ngài biết vụ án mạng mà ngài nói với chúng tôi hôm qua chứ? Vụ mà ngài nghĩ có thể có liên hệ với một bài thơ nào đó về nàng tiên cá và rễ sâm độc?”
Henry cảm thấy một nỗi lo lắng nhói lên từ thẳm sâu trong con người mình. “Đúng rồi.”
Bernard xoa một tay lên khuôn mặt râu ria của mình. “Tôi nghĩ có vài thứ gần bến cảng mà ngài nên tới xem xét.”
Trong ánh sáng mờ tỏ lúc bình minh, rừng cột buồm trôi nổi trên dòng trông chỉ như một đống ảo ảnh ma quái không hình dạng hay công năng gì. Ngài Henry Lovejoy thọc sâu hai tay vào túi chiếc áo choàng để chống lại cơn rùng mình vì giá lạnh. Màn sương mù bay lên từ mặt nước xoáy thành cuộn xung quanh ông, lạnh lẽo và ẩm ướt và đậm đặc mùi của cây gai dầu, của nhựa đường và cá chết.
“Ồ, ông kia.” Vóc dáng vạm vỡ của một viên cảnh sát xuất hiện trong màn sương mờ ảo. “Không ai được phép tiến xa hơn chỗ này. Đây là lệnh của Phố Bow.”
“Ngài Henry Lovejoy, Queen Square,” Henry trả lời cộc lốc. Ông rảo bước nhanh qua viên cảnh sát, bước chân dội tiếng trên sàn gỗ của bến cảng.
Ông có thể nhìn thấy một tốp người đang túm tụm gần kho hàng cũ phía trước mặt. Henry dừng lại, cảm nhận rõ sự trống rỗng thẳm sâu trong tâm hồn rồi cố gắng nuốt cục nghẹn đang dâng ứ lên cổ họng. Cảnh tượng những cái chết đẫm máu chưa bao giờ dễ dàng đối với Henry. Ông phải tự gồng mình lên để mạnh mẽ hơn trước cảnh một người khác lại bị cắt xẻo như thể một miếng thịt bò.
Khi thấy Henry tiến lại gần, một trong số những người gần kho hàng đứng thẳng lên rồi đi về phía ông. Một người đàn ông mập mạp với đôi mắt lồi màu xám ngấn nước và cặp môi trề ra ướt nhẹp, Ngài James Read là một trong ba chánh thẩm đang tại vị, một người trí óc hẹp hòi mà Henry biết rằng ông ta vừa đầy tham vọng vừa ghen tỵ một cách sâu sắc với danh giá của mình.
“Ông Henry,” vị chánh thẩm kia lên tiếng với giọng khôi hài thô kệch không giấu diếm. “Ông đâu cần phải bất chấp giá lạnh, lặn lội tới đây trong một buổi sáng xấu trời như thế này. Người này hẳn biết rõ phép lịch sự để không làm phiền tới Queen Square.”
Bến cảng bên này sông Thames trong thành phố nằm dưới quyền quản lý của Phố Bow và những lời lẽ thốt ra từ miệng Ngài James đã được lựa chọn một cách cẩn trọng nhằm mục đích cho Henry biết, sự hiện diện của ông tại đây vừa không cần thiết vừa không được chào đón. Ánh mắt Henry lướt qua viên chánh thẩm, tới phía bóng đổ của kho hàng. “Tôi nghe nói nạn nhân có một rễ sâm độc trong miệng.”
Biểu cảm khôi hài chân chất của Ngài James tan biến. “À, đúng vậy. Nhưng việc đó thì nói lên điều gì cơ chứ?”
“Tôi tin rằng cái chết của quý ông đây có thể liên quan tới những vụ án mạng gần đây mà nạn nhân là Barclay Carmichael và chàng trai trẻ Dominic Stanton.”
“Ý ông là Tên đồ tể vùng West End?” Ngài James hỏi lại bằng một giọng cười khô khốc. “Không thể nào. Không có ai mổ xẻ quý ông này cả.”
Henry thấy đôi chút bối rối. “Thi thể nạn nhân không bị tùng xẻo?”
“Không. Chỉ là một vết thương gọn ghẽ bằng dao xuyên từ bên hông… và cả cái cây sâm độc đẫm máu trong miệng anh ta nữa, tất nhiên rồi.”
Henry nhìn quanh bến cảng. Trong ánh mặt trời đang rạng dần, giờ ông đã có thể nhận ra những thân tàu đen sẫm neo đậu trên sông. Ông buộc mình phải đưa mắt nhìn trở lại hình hài đang nằm bên kho hàng.
Nạn nhân nằm ngửa, một chân gập lại một cách khác thường, như thể anh ta chỉ đơn giản là bị bỏ lại như thế, ở đúng vị trí đã ngã xuống. Không hề có dấu hiệu cắt xẻo gì trên thân thể. Không có sự bày biện cẩn trọng phần thân xác còn lại của nạn nhân. Nguyên nhân gây ra cái chết cũng khác: vết thương từ dao xuyên vào bên hông hơn là một vết cắt nhanh lẹm vào cổ họng từ phía sau. Tuy nhiên, việc rễ sâm độc xuất hiện trong miệng người đàn ông này chắc chắn có liên quan tới vụ án mạng của Thornton, Carmichael và Stanton. Vậy tại sao lại có sự khác biệt này?
Những bước chân của Henry vang lên một cách mơ hồ khi ông lại gần xác chết. Không ai lấy vải che thi thể lại. Anh ta nằm đó với đôi mắt trợn trừng trừng trống rỗng, những đường nét trên gương mặt đã giãn ra sau khi trút hơi thở cuối cùng.
Nhìn anh ta khá trẻ, như Henry biết chắc là như thế - chỉ xấp xỉ khoảng trên dưới hai mươi tuổi. Một thanh niên điển trai, với mái tóc màu nâu nhạt và đường nét cân đối, với nước da sậm màu nắng gió của một người chuyên lênh đênh trên biển. Anh ta mặc quân phục đại úy trong Lực lượng Hải quân Hoàng gia Anh, những chiếc cúc và khóa cài thắt lưng đều sáng bóng lên một cách gọn gàng.
“Anh ta là đại úy hải quân?” Henry cất tiếng hỏi.
“Đúng vậy. Đại úy Adrian Bellamy, từ đơn vị Hải quân Cornwall. Khác xa những nạn nhân trước là con trai ông chủ nhà băng và người thừa kế tương lai.”
Câu đó được thốt lên với một chút mỉa mai nhẹ và Henry không thèm để tâm. “Đơn vị Cornwall đã lưu lại cảng này được bao lâu rồi?”
“Mới cập cảng tối thứ hai, tôi tin là vậy. Họ dự định sẽ lại ra khơi vào cuối tuần này.”
Lovejoy nhíu mày. Chưa đầy một tuần kể từ cái chết của Dominic Stanton. Điều đó có nghĩa là sau khi để lại quãng nghỉ khoảng hai hay nhiều hơn hai tháng giữa các vụ sát hại, tên giết người lại ra tay chỉ sau vài ngày. Tại sao?
“Ông đã nói chuyện với Thuyền trưởng tàu Cornwall chưa?”, Henry hỏi.
“Tất nhiên rồi. Theo lời thuyền trưởng, viên đại úy lên bờ tối qua sau khi nhận được một tin nhắn.”
“Từ ai?”
“Từ gia đình cậu ấy, có vẻ là như vậy. Ít nhất, cậu ta đã bảo thuyền trưởng rằng cậu ta sẽ về thăm gia đình ở Greenwich.” Ngài James nhìn vào thi thể nằm dưới chân họ. Trong một thoáng, chiếc mặt nạ của sự vô tình cục mịch rơi xuống, và một đường gân co lại dọc khuôn hàm béo mập của ông. “Cậu ấy chưa đi xa được đến thế, phải không?”
“Không,” Henry đáp. “Không hề.”
* CHƯƠNG 26Sebastian tìm thấy Ngài Henry đang ngồi sau bàn làm việc ở Queen Square. Vị chánh thẩm hơi cúi đầu, trán ông nhăn lại khi ông hí húi ghi chép một cách giận dữ lên một tờ giấy nhớ.“Tôi đã nghe nói về vụ Đại úy Bellamy,” Sebastian lên tiếng ngay khi viên thư ký Collins cúi đầu chào.
Ngài Henry tháo cặp kính nhỏ đang đặt trên mũi và rồi xoa xoa sống mũi. “Thật phức tạp. Là vụ phức tạp nhất. Không hề có dấu hiệu cắt xẻo trên thi thể, và chàng trai trẻ bị thiệt mạng vì một vết thương do dao gây ra từ bên hông. Tuy nhiên, sự xuất hiện của rễ sâm độc chắc chắn cho thấy mối liên hệ giữa vụ án mạng này với ba vụ kia.”
“Tôi cũng nghĩ thế.”
Ngài Henry cầm một cuốn sách trên bàn làm việc rồi đứng lên. “Khi tôi trông thấy xác cậu ta trên bến cảng, Ngài James đã bác bỏ mọi kết luận của tôi. Sau đó, tôi có nói chuyện với đồng đội cậu ấy là Aaron Graham và Ngài William. Tôi cũng cho họ biết những điểm lưu ý của tôi về vụ việc. Cả hai đều nhất trí rằng bằng chứng từ hiện trường cho thấy cái chết của Nicholas Thornton rất có thể liên quan tới vụ sát hại Carmichael và Stanton. Tuy nhiên, họ vẫn tỏ ra hoài nghi về sự trùng hợp trong bài thơ của John Donne với các vụ án mạng. Vì điểm này, họ đồng tình với Ngài James rằng, vụ án trên cầu cảng không có liên hệ gì với ba vụ còn lại.”
Sebastian quan sát vị chánh thẩm cho cuốn sổ vào một tủ đựng mặt trước bằng kính đặt bên cạnh cửa ra vào rồi khóa lại. “Và họ đã tiếp quản việc điều tra vụ án.”
“Đúng vậy. Đúng là không thể tránh được, nếu xét trên phạm vi của vụ việc.”
Sebastian gật đầu. Phố Bow là đơn vị hành chính công đầu tiên được thành lập ở London, vào năm 1750. Chánh thẩm đầu tiên của Phố Bow là Henry Fielding, sau đó là em trai ông, John Fielding. Hai anh em họ, cùng với nhau, đã thành công trong việc ngăn chặn tình trạng phạm tội bùng phát ở khu vực đô thị đang phát triển mạnh đến nỗi vào năm 1792, khoảng một nửa cơ quan hành chính công nữa được thành lập, bao gồm cả đơn vị tại Queen Square. Nhưng trong số đó, chỉ có chánh thẩm của Phố Bow thực thi quyền hạn trên toàn bộ khu vực nội đô và vùng lân cận. Các thám tử nổi tiếng của Phố Bow có địa bàn hoạt động trên khắp nước Anh.
“Phạm vi quyền lực của tôi cũng có giới hạn,” Ngài Henry lên tiếng. “Về mặt thủ tục, tôi lẽ ra nên liên hệ với Phố Bow về những phát hiện của chúng ta ở Kent.”
Sebastian nhìn Ngài Henry trở lại chỗ ngồi sau bàn làm việc. “Vậy ông có thể cho tôi biết gì về Adrian Bellamy?”
“Chỉ một chút thông tin và ngài có thể sẽ không đọc được trên báo chí, tôi e là vậy. Chàng trai trẻ đến từ Greenwich. Cha cậu ấy là Thuyền trưởng Edward Bellamy.”
“Cũng là lính Hải quân?”
“Không. Là thuyền trưởng một tàu buôn đã nghỉ hưu.” Ngài Henry tỏ ra hơi do dự, rồi tiếp tục. “Những khác biệt giữa các vụ án mạng là rất đáng kể. Không chỉ là cách thức sát hại và không có dấu hiệu tùng xẻo mà còn thể hiện ở những cách khía cạnh khác nữa. Bellamy bị bỏ lại nơi cậu ấy bị đâm chết. Không có việc trưng bày phần thi thể còn lại ở nơi đông người, cũng không có biểu hiện khoe khoang về những điều đã làm với nạn nhân.”
“Có thể tên sát nhân bị áp lực về thời gian,” Sebastian gợi ý.
Lovejoy cẩn trọng chỉnh lại cặp kính trên gương mặt. “Có thể ngài đúng. Ngài chắc chắn đã đúng với suy luận về rễ sâm độc. Như thể kẻ sát nhân cố ý bỏ qua câu thơ đó, rồi lại quyết định trở lại với nó với đầy đủ mục đích. Nhưng tại sao chứ?”
“Bởi vì con tàu của Bellamy chuẩn bị rời cảng. Nạn nhân có sẵn trong kế hoạch sắp nằm ngoài tầm tay hắn.”
Ngài Henry nhìn Sebastian qua chóp cặp kính. “Ngài nghĩ rằng hắn đặt các nạn nhân của mình theo một trật tự nào đó?”
“Có vẻ là như vậy.”
“‘Dạy ta nghe tiếng hát người cá’,” Ngài Henry thì thầm. “Gì cơ?”
“Đó là câu tiếp theo trong bài thơ. ‘Dạy ta nghe tiếng hát người cá’. Nếu hắn sắp xếp các nạn nhân của mình theo một trật tự, chắc hẳn hắn đã chọn được người kế tiếp.”
Sebastian thở hắt ra, tạo thành một tiếng thở dài khô khốc. “Và Phố Bow thì chẳng tin chuyện này một chút nào.”