Chương 32
Từ nhiều năm nay, Ngài Henry Lovejoy sống trong một ngôi nhà thuộc dãy nhà nhỏ ở Quảng trường Russell. Quận này cũng khá sang trọng nhưng còn cách khá xa so với những nơi chốn thời thượng khác và điều này thành ra lại rất hợp với Henry. Ông từng là một lái buôn tương đối thành đạt. Nhưng cái chết của vợ và con gái duy nhất đã đem đến những thay đổi lớn trong đời ông. Henry đã trải qua một hành trình khám phá tâm linh và kết quả là đưa ông trở thành người theo Kháng cách Tin lành. Ông quyết định sẽ dâng hiến toàn bộ phần đời còn lại của mình cho những hoạt động phục vụ cộng đồng.
Henry đang ngồi trong chiếc ghế yêu thích của mình bên cạnh lò sưởi phòng khách, một tấm chăn nhỏ quấn ngang người để tránh bị lạnh khi ông đọc sách. Lò sưởi không ấm lửa; Henry chưa bao giờ cho phép lửa xuất hiện trong nhà mình trước ngày mồng 1 tháng Mười hay sau ngày 31 tháng Ba, bất kể thời tiết thế nào. Nhưng ông cảm nhận rõ cái giá lạnh khủng khiếp và đang định đứng dậy để pha một ấm trà nóng thì nghe thấy tiếng gõ cửa bên dưới, sau đó là một giọng nói vang lên ở hành lang.
Bà quản gia McCoy xuất hiện nơi cánh cửa phòng khách. “Lãnh chúa Devlin muốn gặp ngài, thưa ngài Henry.”
“Lạy Chúa.” Henry ném tấm chăn mỏng sang một bên. “Đưa ngài ấy lên đây ngay, bà McCoy. Và làm ơn mang cho chúng tôi chút trà.”
Devlin xuất hiện nơi ngưỡng cửa phòng khách, vóc dáng mảnh khảnh của anh được bao bọc một cách đầy lịch thiệp trong chiếc quần ống túm bằng da hoẵng, áo gi lê bằng lụa được may đo thủ công vô cùng tinh xảo và áo choàng màu xanh dương sẫm đúng chất quý ông.
“Chà,” Henry lên tiếng. “Tôi biết là ngài vừa trút bỏ bộ y phục Phố Bow của mình.”
Vẻ vui tươi ánh lên trong đôi mắt màu vàng kỳ lạ của Tử tước. “Ông đã nghe điều đó từ Ngài James, tôi nói vậy có đúng không?”
“Và cả Ngài William nữa. Xin mời ngài ngồi.”
“Họ vẫn nghi ngờ ẩn ý trong bài thơ của Donne phải không?” Devlin hỏi trong lúc ngồi xuống chiếc ghế gần đó.
“Có lúc, tôi nghĩ Phố Bow sẽ điều tra chính Tổng Giám mục Canterbury nếu ai đó gợi ý rằng có mối liên hệ nào đó với những vụ án mạng này. Có vẻ như Ngài Jarvis rất quan tâm tới vụ việc. Một sự quan tâm đặc biệt.”
“À, tôi vừa có một cuộc trò chuyện đáng lưu ý với ông ta.”
“Ngài Jarvis sao?”
Sebastian gật đầu. “Có vẻ như con trai ông ta là một hành khách trên con tàu đã khởi hành từ Ấn Độ khoảng năm năm trước. Một tàu buôn tên là Harmony, do Edward Bellamy làm thuyền trưởng. Trong số các hành khách có Humphrey Carmichael và Nam tước Stanton.”
“Lạy Chúa tôi.” Ông Henry ngồi bật dậy. “Tôi nhớ con tàu Harmony. Nó xuất hiện trên tất cả các trang báo.”
Sebastian chần chừ khi bà McCoy xuất hiện nơi cửa ra vào, mang theo một khay đựng ấm trà, tách trà và một chiếc đĩa có vài lát bánh nhỏ. Devlin đợi tới lúc bà quản gia rót trà xong và rời đi rồi mới thuật lại một cách ngắn gọn cuộc gặp của anh với Jarvis.
“Năm năm trước, tôi không có mặt ở Anh,” anh kết thúc. “Nhưng ông nói ông nhớ sự kiện đó?”
“Ồ vâng. Nó giống như một cơn địa chấn vậy.” Henry đặt tách trà vẫn chưa nhấp ngụm nào sang bên rồi đứng lên, đi lại một cách đăm chiêu trong căn phòng nhỏ. Một lời giải thích chi tiết, vẫn đượm cảm giác kinh hoàng đang được hình thành trong trí nhớ của ông. Henry tiếp tục cố gắng để bật ra ý tưởng từ những ký ức của mình, nhưng sợi dây liên hệ giữa các vụ án mạng với trải nghiệm khủng khiếp trên tàu Harmony làm dấy lên một khả năng đáng sợ mà ông có vẻ như không thể xua đi khỏi trí óc. Cuối cùng, ông lên tiếng: “Ngài biết việc đó gợi mở điều gì, đúng không?” Ông quay sang Tử tước. “Hành động cắt xẻo tử thi… việc rút cạn máu…” Giọng nói của ông trở nên xa xăm.
Devlin bắt gặp ánh mắt Henry và hai người cứ thế nhìn nhau. “Người Anh phải viện tới hành vi ăn thịt người trước khi phải đối mặt với nạn đói và cái chết.”
Henry rút chiếc khăn tay khỏi túi rồi ho vào những nếp gấp màu trắng như tuyết. “Tôi không tin lại có giả thuyết nào đó cho rằng trong lúc họ không thể di chuyển, các nhân viên và hành khách trên tàu Harmony…”
“Điều đó không có nghĩa là nó không xảy ra,” Devlin tiếp lời, khi Henry bỏ lửng câu nói của mình. “Đó là luật bất thành văn của dân đi biển, rằng việc chống lại hành vi ăn thịt người có thể được xem xét lại trong trường hợp những người sống sót sau các vụ tàu chìm hoặc vì điều kiện mà không thể di chuyển được. Hãy nghĩ tới trường hợp tàu Peggy, hay chiếc bè của chiến thuyền Medusa. Đôi khi, những người sống sót thừa nhận việc họ đã làm. Còn vào những thời điểm khác, chỉ có sự nghi ngờ cứ thế đeo đẳng, bám riết lấy họ.”
“Thông thường, họ ăn xác của những người bị chết trước tiên - điều này không đúng phải không?”
“Thường là như vậy. Nhưng nếu không có sự lựa chọn đó, họ có thể tổ chức rút thăm và kẻ thua cuộc sẽ hi sinh mạng sống vì sự tồn tại của những người còn lại. Chỉ là bằng cách nào đó, tôi không nghĩ Humphrey Carmichael hay Nam tước Stanton sẽ cho mảnh giấy ghi tên họ vào một cái mũ để biến mình thành bữa tối cho những hành khách khác trên tàu.”
“Chắc là không rồi,” Henry đồng tình.
“Điều dẫn tới những nghi ngờ của dư luận là nạn nhân, nếu đúng là có một người như vậy, đã được chọn một cách tùy tiện hơn thế. Chúng ta cần biết tên của các hành khách khác trên tàu Harmony trong chuyến hành trình đó, cũng như chủ của con tàu và các kiện hàng.”
“Biên bản điều tra được lưu giữ tại Phòng Thương mại,” Henry nói.
Devlin đặt tách trà của mình sang một bên rồi đứng dậy. “Tốt rồi. Hãy cho tôi biết ông phát hiện được gì.”
“Ngài quên rồi, thưa ngài. Phố Bow đã đảm trách điều tra vụ việc này.”
Devlin mỉm cười rồi xoay người bước về hướng cửa, sau đó, anh tỏ ra lưỡng lự đôi chút. “Thêm một điều nữa. Có một viên đại úy trong Đội Cận vệ Kỵ binh Hoàng gia tên là Peter Quail. Thời điểm anh ta làm nhiệm vụ cùng trung đoàn với tôi ở chiến trường Lục địa, anh ta có niềm vui thích ma quỷ trong việc hành hạ, tra tấn và tùng xẻo tù nhân. Tôi không biết có mối liên hệ nào giữa anh ta với tàu Harmony không, nhưng có thể ông cử một trong các viên cảnh sát của mình đi tìm hiểu xem anh ta ở đâu vào những đêm xảy ra án mạng. Chúc buổi tối tốt lành, ông Henry.”
Henry nghĩ về cuộc trò chuyện ngắn với chánh thẩm Phố Bow buổi sáng hôm đó, bất giác thở dài.
Tối muộn hôm đó, Kat ngồi trước gương trong phòng thay đồ của cô ở nhà hát. Trong ánh nến lung linh, hình bóng cô trong gương trông thật xanh xao, rã rời. Mùi hương cam, mùi phấn mỡ trang điểm và bia vẫn đậm đặc trong không khí, nhưng bốn bề nhà hát xung quanh cô hoàn toàn tĩnh lặng. Vở kịch cũng đã kết thúc từ lâu.
Adrien O’Connell đã không tới.
Với một bàn tay run rẩy, cô cất phần còn lại của bộ trang phục diễn đi rồi đứng dậy. Hai ngày nữa. Cô còn hai ngày nữa, và cô, nếu có gì để nói, thì chỉ càng thêm xa hơn bao giờ hết nơi có thể tìm ra cách thoát khỏi tình thế tiến thoái lưỡng nan hiện tại.
Tối hôm đó, Sebastian mơ thấy những thi thể rã nát, những xương thịt vỡ vụn. Hình ảnh về những chàng trai trẻ với tứ chi bị chặt đứt gần đây đan xen với những ký ức xa xôi về cuộc chiến đẫm máu không hồi kết trên các chiến trường đầy chết chóc của châu Âu. Tỉnh giấc, anh với sang Kat, không nhớ gì hết cho tới khi bàn tay trượt trên lớp ga giường lạnh lẽo, trống rỗng bên cạnh, Sebastian mới phát hiện ra anh đang ngủ trên giường nhà, và chỉ có một mình.
Sebastian ngồi dậy, tim anh đập thổn thức, cảm giác khó chịu khiến anh chỉ muốn được ôm trọn cô trong vòng tay rắn chắc. Tụt khỏi giường, anh đi về phía cửa sổ, giật mạnh tấm rèm che.
Mặt trăng đang khuyết dần khắc in những hình khối kỳ cục của ánh sáng và bóng tối lên con phố bên dưới. Sebastian đã định gặp Kat ở nhà hát sau buổi trình diễn của cô, nhưng cô từ chối vì cảm thấy không được khỏe. Chắc chắn cô trông không ổn chút nào, hai má cô xanh lợt, mi mắt sụp xuống. Nhưng anh biết, qua cái cách cô né tránh ánh mắt quan tâm của anh, rằng cô đang nói dối. Nếu là người đàn ông khác, anh ta có thể sẽ nghi ngờ, sẽ nổi cơn ghen. Sebastian thì chỉ biết rằng, anh có một cảm giác vô cùng mạnh mẽ và sâu sắc về việc có gì đó vô cùng tồi tệ đang diễn ra.
Anh thấy mình thật vô dụng; anh biết rõ như vậy. Cô đang gặp rắc rối, và vì lý do nào đó mà anh không thể hiểu, cô đã cảm thấy không đủ tin cậy mà chia sẻ với anh. Hoặc cũng có thể cô đã cố gắng tìm kiếm sự giúp đỡ từ anh, anh băn khoăn tự hỏi, nhưng rốt cuộc chỉ thấy anh toàn tâm toàn ý cho việc ngăn chặn kẻ sát nhân và vì thế khiến cô suy luận rằng, anh chẳng có thời gian cho người phụ nữ anh yêu? Sebastian nhận ra, thậm chí anh còn không dám chắc lý do là gì.
Đó mới là điều mà Sebastian cho rằng, thực sự là một kết luận đáng nguyền rủa.