Đừng Coi Tôi Là Người Có Lỗi
Đợi đến khi hai nhân viên FBI chắc chắn đã đi xa tôi mới ra khỏi xưởng.
Tôi quay về cầu tàu, ôm chặt laptop của Owen trước ngực. Tôi đi qua trường tiểu học Bayside đúng giờ tan trường.
Tôi ngẩng lên khi cảm giác mọi ánh mắt đang dồn cả vào mình. Vài bà mẹ (và ông bố) đang nhìn tôi. Không hẳn giận dữ như Carl và Patty, mà lo lắng và thương cảm. Dù sao chăng nữa, những người này ai cũng yêu quý Owen. Họ luôn yêu quý anh. Họ bao bọc anh. Họ sẽ không nghi ngờ Owen chỉ vì tên công ty nơi anh làm việc xuất hiện trên truyền thông. Sống ở một thị trấn nhỏ nơi mọi người bảo vệ lẫn nhau là như thế. Không dễ gì để họ thay đổi tình cảm với người họ yêu quý.
Nhưng cũng không dễ gì để họ đón nhận một thành viên mới. Như tôi. Họ vẫn chưa chắc có nên chấp nhận tôi hay không. Lúc tôi mới chuyển đến Sausalito, tình hình còn tệ hơn nhiều. Vẫn những ánh mắt tò mò dò xét ấy, nhưng vì một lý do khác. Họ đặt đủ loại câu hỏi, thoải mái đến mức Bailey nghe được hết. Con bé về nhà thuật lại cho tôi. Họ muốn biết con người không phải dân thị trấn Owen quyết định kết hôn kia là ai. Họ không hiểu vì sao anh chàng độc thân sáng giá nhất Sausalito lại kết thúc cuộc sống độc thân vì một cô thợ tiện gỗ, cho dù họ không hẳn gọi tôi như thế. Họ gọi tôi là thợ mộc - cô thợ mộc không trang điểm và không diện giày thời trang. Họ nói Owen chọn vợ mới lạ làm sao - một cô nàng mặt mộc, gần bốn chục, chắc sẽ không con cái gì. Một cô nàng có vẻ như quá bận nghịch gỗ nên không có thời gian lập gia đình.
Hình như họ không hiểu điều mà Owen đã biết rõ về tôi ngay từ đầu. Tôi thấy chẳng sao khi sống một mình. Ông nội đã nuôi dạy tôi biết tự lập. Khi cố tìm cách sống cho hợp với cuộc sống của người khác mới là lúc tôi gặp vấn đề, đặc biệt nếu điều đó có nghĩa phải đánh mất một phần bản thân. Vì vậy, tôi chờ đến lúc không phải làm thế - đến lúc cảm thấy ai đó hợp với mình một cách dễ dàng. Nói thế nghe hơi dễ quá chăng. Phải chăng nên nói thế này cho chính xác, tôi thấy những gì mình cần làm để ở bên Owen không giống nỗ lực chút nào. Mà cảm tưởng chúng chỉ giống như là những chi tiết nhỏ hơn.
Về đến nhà, tôi khóa cửa ra vào trước khi lôi điện thoại ra tìm số. JAKE. Là cú điện thoại tôi không muốn gọi nhất vào lúc này, nhưng vẫn phải làm thôi. Tôi gọi luậc sư thứ hai trong hai luật sư tôi quen.
“Anderson trả lời...” anh nói khi nhấc máy.
Giọng anh đưa tôi trở lại phố Greene, xúp hành và những ly Bloody Mary ở quán Fanelli vào các chiều Chủ nhật, trong một cuộc đời khác. Tôi trở về với cuộc đời ấy bởi chồng chưa cưới cũ của tôi luôn trả lời điện thoại như thế. Jake Bradley Anderson - bằng JD/MBA [1] , vận động viên ba môn phối hợp, đầu bếp siêu hạng.
Đã hai năm kể từ lần cuối chúng tôi nói chuyện với nhau nhưng cách trả lời điện thoại của anh hoàn toàn không thay đổi, cho dù nghe rất tự mãn. Anh thích vẻ tự mãn ấy. Vì thích nên anh vẫn làm vậy. Anh cho rằng tự mãn và hăm dọa thế mới tốt, nếu tính đến công việc anh làm. Jake là luật sư tranh tụng của một công ty luật ở Park Avenue, đang trên đà thuận lợi để trở thành một trong các cộng sự cao cấp trẻ tuổi nhất công ty. Tuy không phải là luật sư hình sự nhưng anh là một luật sư giỏi, anh sẽ nói thế ngay lần đầu gặp mặt ai đó. Tôi hy vọng tính cách ngạo mạn của Jake sẽ có ích cho mình lúc này.
“Chào anh,” tôi nói.
Anh không buồn hỏi ai. Anh biết ngay là ai, cho dù đã lâu lắm rồi. Anh cũng biết phải có chuyện gì hỏng bét thì tôi mới gọi thế này.
“Em đang ở đâu?” anh nói. “New York à?”
Lúc tôi gọi điện báo cho Jake mình sắp kết hôn, anh nói rồi sẽ có ngày tôi quay lại và chúng tôi sẽ trở lại bên nhau. Anh tin chắc như thế. Và rõ ràng anh nghĩ hôm nay là ngày ấy.
“Sausalito,” tôi dừng lại, khiếp sợ những từ mà tôi không muốn nói ra. “Em cần anh giúp, Jake. Em nghĩ em cần luật sư...”
“Nghĩa là... em đang làm thủ tục ly hôn?”
Tôi cố lắm mới không ngắt điện thoại. Jake không thể nhịn miệng. Kể cả khi việc tôi hủy đám cưới khiến anh nhẹ hết cả người, kể cả khi anh kết hôn ngay với người khác chỉ bốn tháng sau đó (rồi chẳng bao lâu sau đã ly hôn), nhưng anh vẫn luôn thích đóng vai nạn nhân trong mối quan hệ của chúng tôi. Jake cứ bám lấy cách lý giải cho rằng quá khứ là thứ khiến tôi sợ hãi không mở rộng cửa đón anh vào lòng vì sợ rồi anh sẽ bỏ rơi mình như cha mẹ bỏ rơi tôi. Anh không bao giờ hiểu một điều. Tôi không sợ ai đó bỏ rơi mình, tôi chỉ sợ chọn nhầm người ở lại.
“Jake, chồng em là lý do vì sao em gọi cho anh,” tôi nói. “Anh ấy gặp rắc rối.”
“Anh ta làm gì?” anh nói.
Jake là hy vọng lớn nhất của tôi lúc này. Tôi liền thuật lại toàn bộ câu chuyện cho anh nghe, bắt đầu từ những thông tin cơ bản về công việc của Owen, cuộc điều tra nhằm vào The Shop và sự mất tích kỳ lạ của Owen, cẩn thận giải thích về hai cuộc thăm hỏi từ Grady Bradford và FBI cũng như việc FBI không hay biết gì về Grady. Tôi cho anh hay dường như không ai biết Owen giờ đang ở đâu hoặc kế hoạch tiếp theo của anh là gì, và tôi với Bailey là mù tịt nhất.
“Còn cô con gái... đang ở cùng em hả?” anh hỏi.
“Bailey, đúng. Nó đang ở với em. Có lẽ là nơi nó không muốn ở nhất trên trái đất này đấy.”
“Nghĩa là anh ta bỏ cả nó?”
Tôi không trả lời.
“Tên đầy đủ của con bé là gì?” anh nói.
Tôi nghe tiếng anh gõ bàn phím, ghi chú, lập biểu đồ như những biểu đồ trước đây từng trải đầy trên nền phòng khách của chúng tôi. Lần này, tên Owen nằm chính giữa.
“Thứ nhất là thế này. Em không nên quá lo lắng về việc FBI không biết gì về anh chàng bên cảnh sát tư pháp đến nói chuyện với em. Rất có thể họ toàn nói dối. Hơn nữa, các cơ quan thực thi pháp luật vẫn thường giành giật lẫn nhau, đặc biệt khi phạm vi điều tra vẫn chưa được xác định. Có ai bên SEC lên tiếng gì không?”
“Không.”
“Rồi họ sẽ liên lạc. Em phải yêu cầu tất cả liên hệ với anh, ít nhất cho đến khi chúng ta biết đang xảy ra chuyện gì. Đừng nói gì hết, bảo họ cứ trực tiếp gọi điện cho anh.”
“Em cảm ơn.”
“Không phải cảm ơn,” anh nói. “Nhưng anh phải hỏi thế này... em liên quan đến mức nào?”
“Thì anh ấy là chồng em, nên em nghĩ khá mật thiết.”
“Rồi họ sẽ mang lệnh khám nhà đến,” Jake nói. “Khá ngạc nhiên khi đến giờ họ vẫn chưa làm thế. Nếu ở nhà có gì cho thấy sự dính líu của em tới vụ này thì em nên mang đi chỗ khác ngay.”
“Đời nào em dính dáng gì,” tôi nói. “Em không liên quan gì hết.”
Tôi thấy mình đầy phòng thủ. Lại nôn nao cảm giác lo lắng khi nghĩ đến việc có người mang lệnh khám đến nhà rồi tìm thấy túi thể thao chưa ai động tới giấu dưới bồn rửa bát trong bếp.
“Jake, em chỉ muốn biết Owen đang ở đâu và vì sao anh ấy cho rằng cách duy nhất thoát tội là trốn khỏi đây.”
“Thứ nhất có thể vì không muốn ngồi tù.”
“Không phải thế. Anh ấy sẽ không bỏ trốn vì lý do đó.”
“Thế thì theo em là vì cái gì?”
“Anh ấy đang cố bảo vệ con gái,” tôi nói.
“Trước cái gì?”
“Em không biết. Có lẽ anh ấy nghĩ nếu mình bị buộc tội oan thì sẽ hủy hoại cả cuộc đời nó. Có lẽ anh ấy đang trốn đâu đó trong khi tìm cách chứng minh mình vô tội.”
“Hầu như không có chuyện đó. Nhưng... rất có khả năng còn có chuyện khác nữa,” Jake nói.
“Chuyện gì cơ?”
“Thì có khi anh ta mắc tội gì đó ghê gớm hơn chẳng hạn,” Jake nói.
“Anh giúp em thế à Jake,” tôi nói.
“Nghe này, anh không muốn tô vẽ gì ở đây, nhưng nếu không phải trốn chạy vì công ty The Shop thì rất có thể chồng em đang trốn chạy khỏi điều gì đó The Shop sẽ hé lộ về anh ta. Câu hỏi cần đặt ra là điều ấy là gì...” Jake dừng lời. “Anh biết một thám tử tư này, rất giỏi. Anh sẽ nhờ anh ta tìm kiếm thông tin. Nhưng em phải email cho anh toàn bộ lý lịch của Owen. Tất cả những gì em biết. Đi học ở đâu, lớn lên ở đâu. Ngày tháng cụ thể. Mọi thứ. Ngày sinh và nơi sinh của con gái anh ta nữa.”
Tôi nghe tiếng Jake cắn bút. Không ai khác trên thế gian này hiểu được âm thanh từ thói quen bí mật ấy của Jake. Một thói quen không được tự tin cho lắm. Riêng với tôi, hình ảnh ấy hiện ra rõ nét như tôi đang ngồi cùng phòng, nhìn thẳng vào nắp bút bẹp gí của anh. Hiểu rõ mọi thứ về ai đó cả tới lúc mình không muốn nữa như thế mới đáng sợ làm sao.
“Làm giùm anh việc này. Nhớ lúc nào cũng mang theo điện thoại, phòng khi anh cần nói chuyện. Nhưng đừng trả lời số điện thoại lạ.”
Tôi nghĩ đến lúc Grady nói Owen đã vứt điện thoại, nghĩ đến việc anh đã vứt số điện thoại duy nhất tôi biết là của anh.
“Owen sẽ không gọi gì vào thời điểm này,” Jake nói. “Em biết rồi còn gì.”
“Em không biết.”
“Anh nghĩ là em biết.”
Tôi không nói gì, không chịu thừa nhận, kể cả khi có cảm giác anh nói đúng. Tôi sẽ không phản bội Owen hoặc Bailey theo cách ấy.
“Và em phải tìm hiểu vì sao chồng em bỏ trốn, phải tìm ra một lý do gì cụ thể hơn việc cho rằng anh ta đang tìm cách bảo vệ con mình...” Jake nói. “Và phải nhanh chân lên. FBI sẽ không tử tế lâu đâu.”
Đầu tôi quay cuồng nghĩ đến cách tra hỏi vốn đã thiếu lịch thiệp của FBI.
“Em còn đó chứ?” Jake hỏi.
“Còn.”
“Chỉ cần... em giữ bình tĩnh. Em biết nhiều hơn em tưởng. Em biết phải làm gì để vượt qua chuyện này.”
Thế là đủ khiến tôi khóc rồi, cái cách mà anh nói ra điều đó - ngọt ngào, chắc chắn - đây là cách thể hiện sự quan tâm sâu sắc kiểu của Jack.
“Nhưng trong tương lai,” anh nói, “đừng nói ai đó vô tội được không? Nếu phải nói gì thì nên nói anh ấy không phạm pháp. Em tự biến mình thành đồ ngốc khi nói anh ấy vô tội đấy. Đặc biệt khi con người ta hầu như ai cũng tội lỗi đầy mình.”
Và thế là vậy đấy.
[1] Một chương trình song bằng cho phép người tốt nghiệp sở hữu cả bằng luật Sư (Juris Doctor) và bằng MBA của các trường đại học ở Mỹ và Canada.