← Quay lại trang sách

Một Ngày Thực Sự Tồi TệKhông Tốt Đẹp Gì Của Bailey

Khi Bailey đi học về, trông con bé đến khổ sở.

Tôi đang ngồi trên ghế dài uống một ly rượu vang đỏ, chăn đắp trên hai chân. Tôi cố điểm lại mọi việc diễn ra trong ngày - nghe như không thể, nhưng là ngày đã bắt đầu và sẽ kết thúc không có Owen. Khiến tôi giận dữ và buồn bã và căng thẳng và cô đơn.

Con bé len lỏi qua các cầu tàu, không ngẩng đầu nhìn ai cho đến khi về tới nhà. Rồi nó dừng lại trước mặt tôi, ngay trước ghế dài và cứ đứng nguyên tại đó. Hai mắt rực lửa.

“Mai cháu sẽ không đi học,” nó nói. “Cháu sẽ không đến trường nữa.”

Tôi quan sát mắt nó, nỗi sợ trong nó. Hai chúng tôi ở đó - hai hình ảnh phản chiếu lẫn nhau - đây hoàn toàn không phải cách tôi muốn được đồng điệu với nó.

“Ai cũng vờ như không nói đến chuyện ấy,” nó nói. “Về cha cháu. Về cháu. Thà cứ nói thẳng vào mặt cháu còn đỡ. Làm như cháu không nghe thấy ai cũng thì thào suốt ngày không bằng.”

“Mọi người nói gì?”

“Cô muốn nghe đoạn nào?” nó nói. “Đoạn Brian Padura hỏi Bobby sau tiết hóa có phải bố cháu là tội phạm không? Hay khi Bobby đấm thẳng vào miệng cậu ta vì dám hỏi thế?”

“Bobby đấm thật sao?”

“Chứ sao...”

Tôi gật đầu, hơi ấn tượng với Bobby.

“Sau đó thì càng thêm tệ,” nó nói.

Tôi khẽ dịch sang bên, nhường chỗ cho Bailey. Nó ngồi xuống nhưng chỉ ở ghé mép ghế, như thể sẵn sàng đổi ý đứng dậy bất cứ lúc nào.

“Thế thì mai cháu nghỉ học đi.”

Nó ngạc nhiên nhìn tôi. “Thật sao?” nó nói. “Cô không định phản đối cháu sao?”

“Phản đối thì có ích gì không?”

“Không.”

“Với cô thì mai cháu không phải đến trường. Nếu ngày hôm nay của cháu giống của cô thì cháu đáng được nghỉ.”

Con bé gật đầu rồi bắt đầu nhấm móng tay. “Cảm ơn cô,” nó nói.

Tôi muốn kéo tay nó khỏi miệng để nắm trong tay mình. Tôi muốn nói với nó mọi chuyện rồi sẽ ổn, từ từ sẽ đỡ khó khăn hơn - không cách này thì cách khác. Nhưng nếu điều đó có thể an ủi Bailey phần nào, thì việc tôi là người nói ra lại khiến nó trở nên hoàn toàn vô dụng.

“Cô không có sức nấu nướng gì nữa. Tối nay, nguồn dinh dưỡng duy nhất của cháu sẽ là hai pizza nhiều pho mát có nấm và hành, chỉ ba mươi phút nữa sẽ tới nơi.”

Chút xíu nữa thôi là nó đã nở nụ cười, khiến tôi những muốn hỏi Bailey câu cần hỏi, câu hỏi tôi hy vọng sẽ giúp xác định rõ điều gì đang choán trọn tâm trí tôi từ sau cuộc nói chuyện điện thoại với Jake.

“Bailey này,” tôi nói, “cô cứ nghĩ mãi về những gì cháu hỏi cô, về việc tin nhắn của bố cháu có ý gì. Bố cháu muốn nói gì khi viết con biết điều gì quan trọng ...”

Nó thở dài, rõ là quá mệt mỏi đến nỗi không còn sức rướn mắt tỏ thái độ như mọi khi.

“Cháu biết bố yêu cháu. Cô nói mãi thế rồi còn gì,” nó nói.

“Có lẽ cô hiểu sai,” tôi nói. “Hiểu sai ý bố cháu. Có lẽ bố cháu có ý khác.”

Bailey nhìn tôi vẻ bối rối. “Cô nói thế là sao?”

“Có thể bố cháu viết thế vì cháu biết gì đó,” tôi nói. “Cháu biết gì đó về bố cháu và bố cháu muốn cháu nhớ lại.”

“Cháu thì biết được gì chứ?” nó nói.

“Cô cũng không biết.”

“Thôi, cháu mừng vì chúng ta đã làm rõ với nhau,” nó nói. Rồi ngừng lại. “Nhưng hình như ai ở trường cũng nghĩ giống cô thì phải.”

“Cháu nói thế là sao?”

“Ai cũng nghĩ cháu biết lý đo bố cháu làm những việc ấy,” nó nói. “Kiểu như họ cho rằng vào bữa sáng bố bảo với cháu rằng bố định lấy trộm nửa triệu đô rồi bỏ trốn vậy.”

“Chúng ta không biết bố cháu có liên quan gì tới việc đó không,” tôi nói.

“Không, chúng ta chỉ biết bố cháu không ở đây lúc này.”

Nó nói đúng. Owen hiện không ở đây. Chúng tôi không biết giờ anh đang ở đâu. Tôi nhớ lại những gì Grady Bradford thoải mái nói sáng hôm ấy - thông tin anh ta vô ý cung cấp khi cố thuyết phục tôi nói chuyện với anh ta và tin rằng anh ta đứng về phía mình. Anh ta cho tôi số điện thoại. Anh ta cho tôi số điện thoại của chi nhánh văn phòng làm việc. Nó có mã vùng mà tôi không biết là ở đâu. 512. Tôi thò tay vào túi quần sau lôi ra giấy ăn của hiệu Fred. Có hai số điện thoại - cả hai cùng bắt đầu bằng 512. Không có địa chỉ.

Tôi vớ lấy điện thoại di động trên mặt bàn trà bấm số văn phòng, tim tôi đập liên hồi khi chuông bắt đầu reo. Tổng đài tự động trả lời, cho tôi biết mình đã kết nối với Cơ quan Cảnh sát Tư pháp Mỹ.

Chi nhánh Tây Texas của Cảnh sát Tư pháp. Đặt ở Austin, Texas.

Grady Bradford làm việc ở văn phòng Austin. Tại sao một cảnh sát tư pháp ở Texas lại xuất hiện trước cửa nhà tôi? Đặc biệt lại là người không được quyền tham gia điều tra, nếu đúng như lời O’Mackey và Naomi? Và nếu anh ta có quyền điều tra thì vì sao? Owen đã làm gì khiến Bradford phải nhúng tay vào vụ này? Texas liên quan gì tới tất cả những gì đang xảy ra?

“Bailey,” tôi nói, “bố con cháu đã bao giờ đi Austin chưa?”

“Austin ở Texas á? Chưa.”

“Cháu cố nghĩ xem. Đã bao giờ cháu đi qua Austin trên đường đi đâu đó chưa? Có thể trước khi hai bố con chuyển đến Sausalito. Hồi cháu vẫn còn sống ở Seattle...”

“Nghĩa là lúc cháu mới... bốn tuổi?”

“Cô biết là rất khó nhớ.”

Nó ngửa mặt, lục trí nhớ tìm một ngày hoặc một thời điểm đã quên lãng từ lâu, giờ đột nhiên được biết là sự kiện khá quan trọng mà nó không nên quên. Nét mặt nó tỏ vẻ thất vọng vì không nhớ được gì. Và khiến Bailey thất vọng là việc tôi không muốn chút nào.

“Nhưng sao cô hỏi cháu thế?” nó nói.

“Một cảnh sát tư pháp từ Austin đến đây sáng nay,” tôi nói. “Cô chỉ nghĩ có lẽ anh ta xuất hiện là do bố cháu có người quen ở đó.”

“Ở Austin á?”

“Ừ,” tôi nói.

Nó ngừng nói, ngẫm nghĩ, cố nhớ gì đó.

“Có lẽ,” nó nói. “Lâu lắm rồi... Hình như cháu đến đó dự đám cưới. Hồi cháu còn nhỏ. Cháu nhớ cháu làm cô bé cầm hoa, vì họ bắt cháu tạo dáng chụp bao nhiêu là ảnh. Cháu nghĩ là có người nói lúc ấy cháu đang ở Austin.”

“Cháu chắc không?”

“Không chắc lắm,” nó nói. “Không chắc đến mức ấy.”

“Không sao, thế cháu nhớ gì về đám cưới?” tôi hỏi, cố khoanh nhỏ phạm vi.

“Cháu không biết... cháu chỉ nhớ cả nhà đều đến dự.”

“Nghĩa là cả mẹ cháu?” tôi nói.

“Hình như thế, đúng thế. Nhưng phần cháu nhớ rõ nhất thì mẹ lại không đi cùng cháu với bố. Bố đưa cháu rời khỏi nhà thờ, đi bộ một quãng tới sân bóng bầu dục. Đang có một trận đấu. Cháu chưa bao giờ thấy một sân vận động lớn khủng khiếp đến mức ấy. Sáng trưng đèn. Toàn màu cam.”

“Màu cam?” tôi nói.

“Đèn màu cam, đồng phục màu cam. Cháu thích màu cam, cháu mê Garfield như điếu đổ, nên cháu nhớ lắm... Bố cháu chỉ vào màu cam nói với cháu, giống Garfield chưa kìa.”

“Cháu có nghĩ đám cưới ở nhà thờ không?”

“Đúng thế, ở nhà thờ. Hoặc ở Texas, hoặc ở nơi nào đó không hề gần Texas,” nó nói.

“Nhưng về sau, cháu không bao giờ hỏi bố cháu xem đám cưới đó ở đâu à? Cháu không bao giờ hỏi thêm gì về nó sao?”

“Không. Cháu hỏi làm gì?”

“Công nhận.”

“Hơn nữa, cháu mà cứ hỏi về quá khứ là bố cháu lại buồn,” nó nói.

Tôi ngạc nhiên. “Sao cháu nghĩ bố buồn?”

“Vì cháu chỉ nhớ rất ít về mẹ cháu.”

Tôi im lặng. Nhưng Owen đã có lần cũng nói gần như thế với tôi. Hồi Bailey còn nhỏ, anh từng đưa nó đến bác sĩ trị liệu tâm lý vì nó không chịu nhắc đến mẹ nữa. Bác sĩ nói với Owen đó là điều bình thường. Đó là cơ chế phòng vệ nhằm xoa dịu cảm giác bị bỏ rơi khi mất cha mẹ ở độ tuổi còn nhỏ như Bailey hồi Olivia mất. Nhưng Owen cho rằng còn vì một điều gì đó lớn hơn thế và vì một lý do nào đó, dường như anh luôn tự trách mình vì điều đó.

Bailey nhắm mắt, như thể nghĩ đến mẹ là việc quá sức, như thể nghĩ đến cha giờ cũng là quá sức. Nó đưa tay quệt, nhưng tôi đã kịp thấy một giọt nước mắt. Nó cũng biết tôi đã thấy. Nó thậm chí còn chẳng buồn giấu giếm mình cảm thấy cô đơn đến mức nào. Và khi chứng kiến Bailey trong nỗi đau ấy, tôi hiểu ra một điều. Tôi sẽ làm bất cứ việc gì để con bé vượt qua. Để giúp nó. Tôi sẽ làm bất cứ việc gì để nó cảm thấy ổn trở lại.

“Nói chuyện khác được không?” nó nói. Rồi nó giơ tay lên. “Cô biết không? Cháu rút lại lời đề nghị ấy. Không nói gì hết được không? Cháu muốn không phải nói về bất cứ điều gì.”

“Bailey...” tôi nói

“Không,” nó nói. “Cô để cháu một mình được không?”

Rồi nó ngả lưng vào thành ghế, chờ pizza đến và chờ tôi bỏ đi, thứ tự thế nào cũng được.