← Quay lại trang sách

Chương 1

Trong một thời gian dài, tôi thường nói với mọi người rằng đã nhìn thấy cảnh tượng lúc mình sinh ra. Mỗi lần như thế, người lớn xung quanh đều cười. Có lẽ họ nghĩ đang bị tôi chế nhạo nên thường liếc nhìn khuôn mặt xanh xao chẳng có vẻ gì là ngây thơ của tôi bằng ánh mắt nhiều ẩn ý, coi thường và khinh miệt. Thỉnh thoảng khi tôi nói điều đó trước mặt những người không mấy quen biết, bà tôi lại lo lắng rằng tôi sẽ bị họ cho là thằng ngốc nên chặn họng tôi bằng giọng nói lạnh nhạt, ra đằng kia chơi.

Người lớn vừa cười vừa cố gắng bác bỏ những điều tôi nói bằng một lý giải mang tính khoa học nào đó. Rằng khi mới sinh ra, mắt của một đứa trẻ vẫn chưa đủ tinh tường, rồi thì giả như mắt có đủ tinh tường đi nữa cũng không đời nào có được ý niệm rõ ràng về phần ký ức ấy. Với ít nhiều mánh khóe và sự nhiệt tình có chút hả hê, họ hít thở sâu rồi cố gắng giải thích để đầu óc trẻ con của tôi có thể hiểu được. Khi thấy tôi vẫn còn nghi ngờ, trong lúc lắc nhẹ vai tôi, họ như thể vẫn dè chừng sự nguy hiểm đến từ âm mưu của tôi. Không thể lơ là đề phòng thằng nhãi này được, chắc chắn nó muốn đẩy ta vào bẫy để được nghe kể về “chuyện đó” đây mà. Nếu thế, tại sao nó lại không dùng bộ dạng ngây ngô đúng kiểu trẻ con mà hỏi rằng: “Cháu sinh ra từ đâu? Tại sao cháu lại sinh ra?” nhỉ?! Một lần nữa, người lớn lại im lặng, dường như có điều gì đó khiến họ tổn thương, họ cười nhạt rồi không thèm nhìn tôi nữa.

Nhưng đó chỉ là những suy nghĩ bị làm quá lên. Tôi không hẳn muốn hỏi về điều gì tương tự “chuyện đó” . Mà nếu có đúng như thế đi nữa thì tôi vốn không sợ làm tổn thương trái tim người lớn nên cũng chẳng thể nào có chuyện tôi giăng bẫy họ.

Cho dù được giải thích như thế nào, cho dù bị cười cợt như thế nào, tôi vẫn luôn tin rằng đã nhìn thấy cảnh tượng lúc mình sinh ra. E rằng điều đó đến từ ký ức mà những người hiện diện lúc tôi chào đời nói cho tôi nghe, từ sự ảo tưởng ích kỷ của riêng tôi, hoặc có lẽ đến từ cả hai phía. Nhưng tôi chắc chắn rằng chính mắt mình đã nhìn thấy một cảnh trí vô cùng sinh động. Thậm chí, tôi ghi nhớ cả đường viền của chiếc chậu tắm dành cho trẻ sơ sinh. Trên đường viền của chiếc chậu mới tinh bằng gỗ hoàng bá tươi tắn ấy có những tia sáng mảnh dẻ chiếu xuống. Chỉ ở vị trí đó, gỗ hoàng bá mới trở nên rực rỡ một màu hoàng kim. Khi chiếc chậu lắc lư, nước cũng không thể liếm đến vị trí có ánh sáng. Bên dưới đường viền này không thể nào phân biệt được nước đang phản xạ ánh sáng hay là ánh sáng tự mình chìm đắm trong nước, nhìn tựa như cuộc đụng độ liên tục của những lớp sóng ánh sáng nhỏ, rực rỡ, khoan hòa.

Về phần ký ức này, lời phản bác mạnh mẽ nhất cho suy nghĩ đó của tôi chính là việc tôi không sinh ra vào ban ngày. Tôi sinh ra lúc 9 giờ tối. Đương nhiên, chẳng có tia sáng nào chiếu vào cảnh tượng lúc tôi sinh ra. Hay là ánh sáng của đèn điện nhỉ? Có bị chế nhạo thế nào, tôi vẫn đâm đầu một cách khổ sở vào lối suy nghĩ ngu ngốc rằng, cho dù là ban đêm đi nữa thì ánh sáng vẫn có thể chiếu lên viền chiếc chậu tắm sơ sinh ấy. Bao nhiêu lần tôi chắc chắn đã nhìn thấy đường viền ánh sáng sóng sánh bên trong chậu nước khi còn bé bỏng được người khác tắm cho, ký ức cứ vậy mà đu đưa theo.

Tôi sinh ra hai năm sau trận đại động đất [1] .

Trước đó mười năm, ông nội tôi vướng vụ bê bối Trưởng quản thuộc địa [2] , gánh tội thay cấp dưới và từ chức. (Tôi không hề nói quá về chuyện này nhưng sự tin tưởng tuyệt đối đến mức mù quáng vào con người của ông tôi là thứ mà suốt phần đời về sau tôi không còn được nhìn thấy ở bất cứ đâu.) Gia đình tôi trượt dốc không phanh bằng tốc độ nhanh còn hơn khi ngân nga một giai điệu. Món nợ khổng lồ, tịch biên tài sản, nhà cửa cũng phải bán tống bán tháo, thói hư vinh bệnh hoạn bùng cháy dữ dội giống như những hành động tăm tối làm gia tăng thêm sự bần cùng.

Cứ như thế, tôi sinh ra trong căn nhà đi thuê đã cũ ở một góc phố chẳng hề có chút phong vị đặc trưng nào. Với cánh cổng sắt khoa trương, mảnh vườn trước nhà, phòng khách kiểu Tây rộng như một đền thờ nhếch nhác vùng ngoại ô, căn nhà uy nghi mang hình dáng phức tạp, gợi lên cảm giác u ám ảm đạm. Nếu từ trên con dốc nhìn xuống, đó có vẻ là ngôi nhà hai tầng, nhưng nhìn từ dưới con dốc lên thì lại là ngôi nhà ba tầng. Trong nhà có nhiều căn phòng tối tăm và sáu người hầu. Ông bà, bố mẹ, tất thảy mười người sẽ đi ngủ và tỉnh dậy mỗi ngày trong căn nhà luôn kêu cót ca cót két như một cái tủ cũ rích này.

Tham vọng sự nghiệp của ông, căn bệnh của bà và thói quen tiêu xài lãng phí trở thành nỗi muộn phiền của cả nhà. Bị lũ người thiếu đứng đắn, theo đóm ăn tàn dụ dỗ, ông tôi lúc nào cũng chìm vào giấc mộng tiền tài và thường xuyên đi xa. Xuất thân từ một gia đình nề nếp cổ xưa, bà tôi luôn coi thường và căm ghét ông tôi. Bà là người có tâm hồn lãng mạn đã bị làm cho phát điên lên, lại thêm tính cách bảo thủ không dễ gì bị khuất phục. Bệnh đau đầu kinh niên, dù vòng vo hay trực diện cũng đang gặm nhấm, đục khoét tinh thần bà. Căn bệnh đó đồng thời cũng làm tăng thêm sự nhạy bén vô ích trong trí lực của bà. Sự phát tác điên cuồng của căn bệnh này xảy ra liên tục cho đến tận khi bà chết là vật lưu niệm tội lỗi từ thời trẻ của ông tôi, có ai biết cho chăng?

Bố tôi rước mẹ tôi về nhà, một cô dâu xinh đẹp và yếu đuối.

Buổi sáng ngày 14 tháng Giêng năm Đại Chính thứ 14, cơn đau chuyển dạ dày vò mẹ. Chín giờ tối, một đứa trẻ đỏ hỏn nặng hai cân tư chào đời. Vào đêm thứ bảy từ lúc ra đời [3] , tôi được mặc một chiếc áo kimono có hoa văn chấm bi, quấn tã bằng lụa màu kem, mặc áo cotton mỏng. Ông tôi đứng trước mặt mọi người trong nhà, ghi tên tôi ra tờ giấy hosho [4] , đặt lên cái khay sanbo [5] , sau đó để vào hốc tokonoma [6] .

Mái tóc của tôi mang màu vàng trong một thời gian dài, do liên tục được dưỡng bằng dầu oliu nên đã trở thành màu đen.

Bố mẹ tôi sống ở tầng hai căn nhà. Sau khi viện cớ rằng tầng hai không thích hợp cho gia đình có trẻ nhỏ, đúng hôm tôi được 49 ngày tuổi, bà tôi liền đoạt lấy tôi từ tay mẹ. Vậy là tôi được nuôi trong căn phòng của một người bệnh lúc nào cũng khép chặt cửa, ngột ngạt mùi của tuổi già và bệnh tật, trên chiếc nệm nhỏ trải bên cạnh chiếc nệm của bà.

Khi chưa đầy một tuổi, tôi bị một vết thương trên trán do ngã xuống từ bậc cầu thang thứ ba. Bà đã đi xem kịch, mấy anh chị em họ của bố cùng mẹ tôi đang ồn ào nói chuyện phiếm. Lúc ấy mẹ đột nhiên đi xuống tầng hai lấy đồ. Tôi chạy theo, giẫm vào vạt áo kimono của mẹ rồi ngã xuống cầu thang.

Người nhà tôi gọi điện đến chỗ diễn kịch Kabuki nhờ họ thông báo cho bà, bà trở về ngay. Chống gậy bằng tay phải, bà cứ thế đứng ở cửa nhìn chằm chằm vào bố tôi đang chạy ra đón. Rồi bà nhả từng lời từng lời với một thái độ bình tĩnh đến kỳ lạ.

“Đã chết chưa?”

“Không sao ạ!”

Nghe xong bà mới bước vào nhà bằng đôi chân vững vàng như một vu nữ [7] .

Buổi sáng mùng một Tết năm lên năm tuổi, tôi nôn ra một thứ màu giống như cà phê. Bác sĩ riêng của gia đình được gọi đến nhà, nói: “Không nói trước được điều gì.” Rồi ông ta tiêm thuốc long não và đường nho cho tôi. Hơn hai giờ liền, bác sĩ không thể bắt được mạch đập ở cả cánh tay và cổ tay tôi. Mọi người cho rằng tôi đã chết.

Cả nhà tập trung lại, áo liệm và đồ chơi hàng ngày của tôi cũng được mang đến. Khoảng một tiếng sau đó, tôi đi tiểu được. Anh trai của mẹ là một tiến sĩ nói rằng, “vẫn cứu được”. Có dấu hiệu tim đã đập trở lại. Rồi tôi lại đi tiểu được. Sinh mệnh mập mờ của tôi dần dần sáng sủa, đôi má dần trở nên có sức sống hơn.

Căn bệnh đó, bệnh tự nhiễm độc đường máu trở thành bệnh kinh niên của tôi. Dù nặng hay nhẹ, mỗi tháng nó cũng sẽ ghé thăm tôi một lần. Bao nhiêu lần nguy hiểm cận kề. Trong tiếng bước chân của bệnh tật đi đến gần mình, tôi luôn tự hỏi căn bệnh này là bạn bè của cái chết hay là kẻ thù của cái chết nhỉ?

Ký ức đầu tiên, những ký ức làm tôi lo lắng với hình ảnh chính xác một cách kỳ quặc, bắt đầu được ghi nhớ trong khoảng thời gian này.

Người kéo tay tôi là mẹ, người hầu gái, y tá hay là một người dì của tôi nhỉ, điều này tôi thực sự không thể nhớ nổi. Thời tiết lúc đó như thế nào cũng không phân biệt được. Ánh nắng buổi chiều nặng nề chiếu vào từng căn nhà bao quanh con dốc. Tôi bị người phụ nữ không rõ là ai kéo tay lên dốc, đi về phía căn nhà. Ở hướng ngược lại, có người đang xuống, người phụ nữ bên cạnh kéo mạnh tay tôi nép vào bên đường rồi đứng lại.

Hình ảnh đó bao nhiêu lần bắt tôi phải ghi nhớ, phải tập trung, bao nhiêu lần siết chặt lấy tôi, mỗi lần như thế nó lại có thêm một ý nghĩa mới mẻ khác. Tại sao trong sự mơ hồ của cảnh trí xung quanh, chỉ có bóng dáng của người đang đi xuống dốc là rõ ràng đến kỳ quặc như vậy. Chẳng có gì khó hiểu, bởi chính nó là ảnh tượng kỷ niệm đầu tiên về những điều liên tục uy hiếp tâm hồn dở dở ương ương của tôi.

Đó là một người trẻ tuổi đang gánh hai thùng phân, buộc một cái khăn tay bẩn thỉu trên đầu. Anh ta có ánh mắt rạng rỡ và đôi má đẹp đẽ ửng hồng, đang bước những bước chân nặng nề xuống dốc. Anh ta là người thu gom phân, hàng ngày đến các gia đình để dọn dẹp cứt đái. Lúc ấy anh ta đi giày jika-tabi [8] , mặc một chiếc quần dài màu xanh đậm. Tôi mới chỉ năm tuổi, cảm thấy rất hiếu kỳ với một hình ảnh như vậy. Tuy vẫn chưa phân biệt được rõ ràng ý nghĩa của điều này nhưng đó là mặc khải đầu tiên của sức mạnh, một thứ âm thanh kỳ lạ và tăm tối đang cất tiếng gọi tôi. Có một ẩn dụ xuất hiện bên trong bóng dáng gánh phân của người trẻ tuổi ấy. Bởi vì thứ cứt đái đó là tượng trưng cho mặt đất. Tiếng gọi tôi là tiếng gọi tình yêu mang theo ác ý của người mẹ cội nguồn.

Tôi linh cảm thấy một thứ dục vọng đau đớn trong thế giới này. Vừa nhìn lên bóng dáng bẩn thỉu của con người trẻ tuổi ấy vừa để những mong muốn kiểu như tôi muốn trở thành anh ta, tôi muốn là anh ta, gắn chặt vào đầu mình. Trong số những mong muốn ấy chỉ có hai điểm quan trọng làm tôi phải ghi nhớ rõ ràng. Thứ nhất là chiếc quần màu xanh đậm của anh ta, thứ hai là công việc anh ta đang làm. Chiếc quần màu xanh đậm này làm đường nét phần thân dưới của anh ta trở nên rõ ràng. Cảm giác như phần thân dưới ấy đi về phía tôi một cách thật mềm dẻo. Sự thu hút không thể diễn đạt nổi nảy ra trong suy nghĩ của tôi chính là sự thu hút dành cho cái quần đó.

Công việc của anh ta, giống như thể những đứa trẻ muốn trở thành đại tướng quân, giấc mơ trở thành người thu dọn cứt đái nhen nhóm trong lòng tôi. Nguồn cơn của giấc mơ ấy có thể nói chính là chiếc quần màu xanh đậm nhưng nhất định đó không phải là nguyên nhân duy nhất. Điều này cho thấy một diễn biến kỳ quặc, một sự phát triển đầy cưỡng bức bên trong bản thể của chính tôi.

Tôi cảm thấy niềm mơ ước về sự đau thương đang quấn chặt lấy mình, một sự đau thương sắc nhọn dành cho công việc của anh ta. Công việc ấy mang theo tính bi kịch với ý nghĩa cực kỳ cảm tính. Công việc ấy mang đến cho tôi cảm giác xả thân, cảm giác thiếu thận trọng, cảm giác cận kề với nguy hiểm, cảm giác pha trộn đầy kinh ngạc của sinh khí dồi dào và hư vô trống trải. Những thứ đó tràn ra, thu hút tôi, thôi thúc một đứa trẻ năm tuổi như tôi. Có lẽ tôi đã hiểu lầm về công việc thu dọn cứt đái của anh ta. Có lẽ tôi nghe từ câu chuyện của người lớn về một công việc đặc biệt nào đó, thông qua quần áo anh ta đang mặc, tôi gắn thứ công việc đặc biệt kia một cách khiên cưỡng vào công việc của anh ta. Nếu không phải vậy thì cũng thật khó mà lý giải nổi những gì tôi đã cảm thấy.

Câu chuyện về những cảm xúc như thế cuối cùng bị chuyển sang người bấm lỗ vé tàu điện ngầm và tài xế lái xe diễu hành. Bởi họ khiến tôi cảm nhận mãnh liệt thứ gọi là “đời sống bi kịch” - một kiểu đời sống mà tôi mơ ước được trải qua, và có lẽ từ đây tôi dần bị loại trừ khỏi nó vĩnh viễn mà chính tôi cũng không hề hay biết. Nhất là lúc tôi muốn trở thành người bấm lỗ vé tàu điện ngầm. Hồi ấy, bên trong các nhà ga tàu điện ngầm len lỏi thứ mùi vừa giống như mùi cao su lại vừa giống mùi bạc hà. Thứ mùi đó cùng với hàng cúc màu vàng trên ngực bộ đồng phục màu xanh của người đàn ông làm công việc bấm lỗ vé tàu thôi thúc một cách đơn giản ám thị về tính bi kịch trong suy nghĩ của tôi. Vì lý do nào đó, thứ mùi này bắt tính bi kịch trong trái tim tôi phải nghĩ về những con người sống trong không gian mà nó tồn tại. Các giác quan của tôi tìm kiếm thứ mùi đó, hơn thế, tại những nơi bị tôi ghét bỏ, những con người, sự kiện và cuộc sống diễn ra chẳng có chút quan hệ nào với tôi lại là định nghĩa về những điều bi kịch của tôi. Từ đó, tôi ảo tưởng rằng nỗi buồn khi bị bi kịch khước từ mãi mãi của tôi được chuyển lên họ và cuộc sống của họ. Khó khăn lắm tôi mới hiểu được nỗi phiền muộn của mình nên muốn tham dự vào cùng một bối cảnh sống với họ.

Nếu vậy thì, thứ gọi là tính bi kịch mà tôi cảm nhận được có lẽ chẳng hơn gì hình bóng của sự đau thương mà dự cảm mang theo, dự cảm rằng từ đây tôi đã bị “bi kịch” khước từ.

Vẫn còn một mảnh ký ức đầu tiên khác.

Lên sáu tuổi, tôi mới có thể đọc và viết. Nếu không đọc được cuốn sách tranh đó, hẳn là ký ức của tôi khi chỉ mới năm tuổi.

Đó là một cuốn sách tranh rất bình thường trong rất nhiều cuốn sách tranh lưu hành thời đó, nhưng trong cuốn sách này có một bức phác thảo làm tôi say mê. Mỗi khi ngắm bức tranh, tôi có thể quên đi những buổi chiều dài lê thê, chán ngắt. Vì không muốn người khác nhìn thấy mình say sưa quá mức với bức tranh ấy, nếu có ai đến gần trong lúc đang ngắm tranh, tôi liền đánh lạc hướng họ bằng cách mở trang khác ra.

Tôi không còn thấy phiền phức vì sự chăm sóc quá mức của y tá và hầu gái nữa, chỉ muốn mỗi ngày trôi qua được đắm chìm vào bức tranh ấy. Khi mở trang sách đó ra, trái tim tôi đập rộn rã liên hồi, nếu nhìn trang sách khác lòng lại thấy trống trải.

Bức tranh đó vẽ hiệp sĩ cầm kiếm cưỡi một con ngựa trắng. Con ngựa tung hai vó trước mạnh mẽ đá vào đám bụi cát, lỗ mũi phì phì tức giận. Hiệp sĩ mặc áo giáp màu bạc, trên có gắn một chiếc huy hiệu rất đẹp. Khuôn mặt tuyệt mỹ ẩn hiện bên trong chiếc mũ giáp sắt, vung thanh kiếm mạnh mẽ lên bầu trời xanh trong, hướng về phía đối thủ đang lao đến mang theo sự hung hiểm. Có lẽ là sự hung hiểm của cái chết chăng? Tôi tin rằng trong một chốc lát nữa anh ta sẽ bị giết. Nếu ngay lập tức lật sang trang tiếp theo chắc là sẽ nhìn thấy cái chết của anh ta. Trong lúc bức tranh chẳng thay đổi gì thì có lẽ mọi sự đã tiếp diễn đến một chốc lát tiếp theo ấy.

Một lần tình cờ, người y tá mở đến trang sách có bức tranh, đảo mắt nhìn tôi rồi nói:

“Cậu à, cậu có biết câu chuyện của bức tranh này không?”

“Tôi không biết”, tôi trả lời.

“Người này nhìn giống đàn ông nhỉ? Thế mà lại là đàn bà. Tên cô ấy là Jeanne d’Arc. Chắc là chuyện đàn bà giả làm đàn ông để ra trận bảo vệ đất nước đấy.”

“Đây là đàn bà sao?”

Tôi cảm thấy như bị đánh mạnh. Người mà tôi nghĩ là đàn ông lại là một người đàn bà. Người kỵ sĩ đẹp đẽ này không phải là đàn ông mà lại là đàn bà, cái quái gì đây? (Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể lý giải được và không ưa việc đàn bà ăn mặc kiểu quần áo giống đàn ông.) Điều đó giống như thể sự trả thù của hiện thực đầu tiên mà tôi phải gánh chịu trong cuộc đời, một sự trả thù tàn khốc dành cho những ảo tưởng ngây thơ của tôi, đặc biệt là ảo tưởng về cái chết của người đàn ông ấy. Nhiều năm sau tôi đọc được lời ca ngợi cái chết của người kỵ sĩ tuyệt đẹp trong mấy câu thơ của Oscar Wilde:

Ngã xuống bên bụi lau

Người kỵ sĩ tuyệt đẹp...

Từ ấy, tôi không xem cuốn sách tranh đó nữa. Thậm chí chẳng bao giờ thèm động tay vào nó.

Trong tiểu thuyết Phía đó , Huysmans [9] nói rằng: hành động theo xu hướng chủ nghĩa thần bí của Gilles de Rais [10] “cuối cùng phải hiểu ngược lại bản chất là một tội ác không rõ ràng và một sự tàn bạo đầy xảo trá”. Theo lệnh của vua Charles VII, anh ta từng được huấn luyện bằng cách nhìn vào các thành tựu của Jeanne d’Arc, người mà anh ta có lúc phải chịu trách nhiệm bảo vệ. Dù là một cơ duyên đầy nghịch lý (tức là một cơ duyên đáng ghê tởm) nhưng gần như tương tự như thế, trong câu chuyện của tôi, người trinh nữ xứ Orléans ấy cũng chiếm một vị trí rất quan trọng.

Còn một ký ức khác.

Mùi mồ hôi. Mùi mồ hôi nhắc nhở tôi, khích bác mơ ước của tôi, khống chế tôi. Nếu lắng tai nghe, có thể nghe ra âm thanh loáng thoáng giống như những lời đe dọa, vẩn lên những tiếng lạo xạo lạo xạo. Âm thanh gần giống với giọng hát đơn giản mà ai oán kỳ quặc đôi khi có lẫn trong đó một tiếng còi hiệu. Tôi kéo tay người hầu gái, hối thúc cô ta, nhanh lên nhanh lên, người hầu gái ôm lấy tôi rồi vội vàng đi về phía cánh cổng.

Đám binh sĩ từ trại huấn luyện trở về đi ngang qua trước cổng nhà tôi. Tôi rất thích nhận vỏ đạn rỗng từ những binh sĩ lúc nào cũng thân thiện với trẻ con ấy. Bà tôi cho rằng đó là thứ nguy hiểm nên cấm tôi nhận, bởi vậy mà niềm vui của tôi còn được gia tăng nhờ thêm vào một chút dư vị bí mật. Tiếng bước nặng trịch của đôi giày quân nhân, bộ quân phục bẩn thỉu, súng vác trên vai, hình ảnh của họ khiến đứa trẻ nào cũng mê tít. Nhưng thứ làm cho tôi say mê, động cơ của sự vui vẻ khi nhận vỏ đạn từ họ đơn giản chỉ là mùi mồ hôi.

Mùi mồ hôi của những binh sĩ, thứ mùi giống như mùi không khí ở bờ biển bị nắng hun cháy sém, thứ mùi giống hệt gió biển xộc vào mũi khiến tôi say mê. Thứ mùi đầu tiên mà tôi nhớ được có lẽ chính là mùi này. Thứ mùi ấy không lập tức gợi nên một chút ý niệm nào về khoái cảm tính dục nhưng vận mệnh của những người lính, tính bi kịch trong công việc của họ, cái chết của họ, những đất nước xa xôi mà họ từng đặt chân đến dần dần đánh thức từ trong sâu thẳm trái tim tôi luôn mong mỏi và đầy nhạy cảm về tính dục.

... Lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy thứ ảo ảnh kỳ quặc như vậy. Thực ra ngay từ lần đầu tiên này, những ảo ảnh ấy đã hiển hiện trước mặt tôi bằng sự hoàn hảo đầy toan tính. Những thứ mà trong những năm tiếp theo của cuộc đời đã chi phối đến tận gốc rễ hành động và ý thức của tôi, lúc này đây đang hiện ra ngay trước mặt tôi, chẳng thiếu một thứ nào.

Quan niệm về nhân sinh từ thời thơ ấu của tôi tuyệt đối không phá bỏ quan điểm của học thuyết tiền định theo phong cách Augustinus [11] . Nhiều lần lưỡng lự vô ích làm khổ tôi, ngay cả bây giờ tôi vẫn cứ liên tục bị dằn vặt như thế nhưng nếu cho rằng lưỡng lự là một kiểu cám dỗ tội lỗi thì suy nghĩ mang hơi hướm của thuyết định đoạt [12] trong tôi không hề bị lay chuyển. Thực đơn tổng hợp tất cả những nỗi bất an trong cuộc đời được tặng cho tôi trong lúc tôi không hề biết đọc. Tôi chỉ việc mang theo khăn ăn rồi hướng về bàn ăn. Thậm chí bây giờ, khi đang viết ra cái thứ kỳ quặc như thế này thì bữa ăn kia đã được bày sẵn ra từ lâu, đập vào mắt tôi, chờ tôi đến.

Thời thơ ấu là một vũ đài mà không gian và thời gian bị làm cho rối tung lên. Bản tin hôm nay nghe được từ người lớn về một vụ phun trào núi lửa hay sự nổi dậy của quân phiến loạn, hôm trước cơn bệnh của bà phát tác và chi tiết chuyện cãi cọ vụn vặt trong gia đình, những điều kỳ diệu trong thế giới truyện cổ tích mà chốc lát trước đây còn đang say mê đọc. Ba luồng thông tin ấy, đối với tôi mà nói cũng na ná như nhau, đồng dạng với nhau. Tôi chẳng bao giờ nghĩ thế giới này phức tạp hơn trò chơi xếp hình nhà cửa, cái gọi là xã hội mà trước sau gì tôi cũng phải bước vào, đối với tôi mà nói, đó không phải là nơi rực rỡ hơn thế giới trong truyện cổ tích. Trong lúc không để ý, giới hạn đã bắt đầu hình thành. Ngay từ đầu, trong lúc tôi tỏ rõ sự kháng cự khi đi về phía giới hạn đó thì tất cả ảo tưởng rỉ ra những tuyệt vọng giống như một sự cầu xin điên cuồng của một bản thể hoàn toàn kỳ quặc.

Ban đêm, lúc nằm trên giường, trong bóng tối thăm thẳm bao quanh, tôi nhìn thấy ánh sáng chói lọi nơi đô hội. Tĩnh lặng kinh người, tràn đầy bí mật và sự huy hoàng. Trên khuôn mặt của những người ghé thăm nơi ấy chắc sẽ được đóng dấu ấn của một loại bí mật. Những người lớn về nhà lúc đêm khuya, trong lời nói và cử chỉ của họ còn sót lại một thứ giống như mật khẩu của hội Tam Điểm. Trên những khuôn mặt ấy thấp thoáng vẻ khổ sở, nếu nhìn trực diện sẽ khiến tôi ngạc nhiên. Những khuôn mặt ấy giống như chiếc mặt nạ đêm Giáng sinh, nếu chạm tay vào sẽ lưu lại lớp phấn màu bạc, cảm giác như chạm vào lớp màu sắc mà đêm đô thị đã nhuộm lên.

Cuối cùng thì tôi cũng nhìn thấy tấm rèm ngay sát cạnh bên mình được mở ra. Đó là sân khấu của Shokyokusai Tenkatsu [13] . (Cô hiếm khi xuất hiện trên sân khấu Shinjuku, mãi nhiều năm về sau, tôi đi xem buổi biểu diễn của một ảo thuật gia tên là Dante ở cùng sân khấu ấy, sân khấu của anh ta có nhiều lớp hơn cả sân khấu của Tenkatsu, thế mà cho dù là Dante hay gánh xiếc Hagenbeck [14] ở hội chợ quốc tế cũng không làm tôi kinh ngạc như sân khấu của Tenkatsu dạo ấy.)

Cô thong thả đi trên sân khấu, tay chân linh hoạt trong bộ quần áo giống đại dâm phụ trong sách Khải Huyền [15] . Cùng với sự bình thản trong lúc làm màu làm mè giống như gã quý tộc lưu vong có bàn tay đặc biệt khéo léo, cùng với sự mê hoặc u sầu, cùng với tác phong của một người phụ nữ có vẻ can trường, cô đã giao phó bản thân cho ánh sáng huy hoàng và rõ nét mà những đồ vật rẻ tiền quanh đó phát ra. Lớp vỏ bọc giả tạo đó và lớp hóa trang dày như một diễn viên xiếc, lớp phấn trang điểm đánh lên đến tận móng chân, chiếc vòng tay tuyệt đẹp khảm ngọc nhân tạo, tất cả biểu thị một sự khoan hòa đầy phiền muộn. Từng vết nhỏ trên bề mặt sần sùi của cái bóng không hài hòa đổ xuống, ngược lại, đem đến một cảm giác đặc biệt hài hòa.

Ước muốn trở thành Tenkatsu biến ước muốn trở thành tài xế lái xe diễu hành của tôi trở nên kỳ quặc, dù không rõ ràng nhưng tôi hiểu lý do. Hai ước muốn đó hoàn toàn khác nhau. Ước muốn trở thành Tenkatsu thiếu mất khát vọng của thứ mang tên bi kịch. Đối với ước muốn trở thành Tenkatsu, tôi không được nếm cái vị lẫn lộn đầy kích thích phiền phức của mơ ước. Tuy vậy một ngày nọ, tôi vẫn mang theo cảm giác khổ sở và hồi hộp ấy lẻn vào phòng mẹ, mở tủ quần áo ra.

Trong số kimono của mẹ, tôi chọn ra chiếc áo lòe loẹt nhất rồi lấy miếng vải vẽ hoa hồng màu đỏ tươi bằng sơn dầu cuộn tròn lại làm đai áo giống đai áo của một ông quan lớn Thổ Nhĩ Kỳ. Quấn đầu bằng tấm lụa gói đồ, soi mình trong gương, tôi thấy “chiếc khăn trùm đầu” ấy giống hệt chiếc khăn của tên cướp biển trong tiểu thuyết Đảo giấu vàng . Tôi vui như muốn điên lên. Tuy vậy, tôi vẫn phải làm nhiều thứ nữa. Nhất cử nhất động của tôi, cho đến tận móng chân cũng phải mang vẻ thần bí mới được. Tôi đút chiếc gương vào túi bên trong đai áo, trát lên mặt cơ man nào là phấn trắng. Chiếc đèn pin bỏ túi màu bạc, chiếc bút máy được chạm khắc hoa văn cổ điển, tất cả chúng đều toát ra vẻ rực rỡ hiếm có, thu hút tôi.

Cứ như thế tôi đi đến phòng của bà với điệu bộ nghiêm chỉnh kỳ quặc nực cười.

“Tenkatsu đây. Ta là Tenkatsu đây,” vừa hô lên như thế tôi vừa chạy vòng quanh.

Ở gần giường bà đang nằm có mẹ và khách khứa đến thăm hỏi, bên cạnh giường còn có người hầu gái. Chẳng ai thèm để ý đến tôi. Quá để tâm đến việc muốn mọi người chú ý đến mình, tôi khoác lên người bộ dạng của Tenkatsu, cũng bởi thế mà sự điên khùng của tôi chẳng qua chỉ là thứ bình thường chẳng khiến ai chú ý cả. Rồi đột nhiên tôi nhìn thấy khuôn mặt mẹ mình. Gương mặt ấy có chút xanh xao, dáng ngồi hơi lơ đễnh. Sau khi nhìn vào mắt tôi, đôi mắt mẹ cụp xuống.

Tôi đã hiểu rồi. Nước mắt lặng lẽ chảy ra.

Khi đó tôi đã hiểu được điều gì? Tôi đã bị buộc phải hiểu điều gì? Có lẽ vấn đề của nhiều năm về sau gọi là sự hối hận trước khi phạm tội đã ám thị về sự tồn tại của nó cho tôi biết chính ở thời điểm này chăng? Hay là tôi đã tiếp nhận thành công lời dạy bảo rằng: có thể nhìn thấy một cách vụng về sự cô độc muôn phần bên trong đôi mắt của tình yêu. Đồng thời, phải chăng tôi đã học được từ mặt trái của điều đó về cách khước từ tình yêu của chính bản thân mình.

Người hầu gái tóm lấy tôi, dẫn tôi đến một căn phòng khác rồi ngay lập tức lột thứ trang phục nực cười của tôi ra giống như vặt trụi lông một con gà.

Ham muốn giả trang của tôi tiến bộ trông thấy khi lần đầu tiên được đi xem một buổi chiếu bóng. Cho đến khi mười tuổi, khung cảnh lúc đó vẫn vô cùng rõ nét trong tâm trí tôi.

Có lần tôi đi xem một bộ phim âm nhạc có tên là Fra Diavolo [16] cùng gia sư. Diễn viên mặc quần áo của Diavolo, một bộ quần áo kiểu cung đình, ống tay áo dài đính viền đăng ten bay phấp phới khiến tôi không thể nào quên được. Nếu tôi nói tôi cũng muốn có một bộ quần áo như thế, muốn đội bộ tóc giả như thế, gia sư chắc chắn sẽ ném cho tôi một nụ cười khinh bỉ. Nhưng tôi thừa biết anh ta thường vào phòng của đám hầu gái trong nhà và chọc cười họ bằng cách bắt chước công chúa Yaegaki.

Vậy mà tiếp nối giấc mơ trở thành Tenkatsu, tôi lại bị Cleopatra mê hoặc. Vào một ngày gần cuối năm có tuyết rơi, vị bác sĩ gia đình mới vào làm trong nhà bị tôi nhõng nhẽo đòi hỏi nên đã dắt tôi đến tham gia một buổi chiếu bóng. Bởi bấy giờ là thời điểm cuối năm nên rất ít người tham gia hoạt động này. Bác sĩ gác chân lên lan can ngủ gật, chỉ còn mình tôi quan sát mọi việc xung quanh bằng con mắt hiếu kỳ. Nữ vương Ai Cập ngồi trên đài sen được khiêng bởi rất nhiều nô lệ đang trong hành trình đến Rome. Nữ vương có kiểu mắt sầu muộn được kẻ chì toàn bộ phần mí, mặc một bộ y phục toát ra vẻ siêu nhiên. Trên tấm thảm Ba Tư thấp thoáng nửa tấm thân trần màu hổ phách của cô.

Sau lần đó, tôi lén lút sau lưng ông bà cha mẹ, (mang theo niềm vui của tất cả tội lỗi), bất chấp cả thể diện, trước mặt em gái và em trai hóa trang thành Cleopatra. Tôi mong muốn gì từ việc hóa trang thành phụ nữ này nhỉ? Về sau, tôi nhận ra mình và Heliogabalus [17] có những ước muốn giống hệt nhau. Đó là tên Hoàng đế dã thú mang đến sự đổ nát cho vương triều, kẻ phá hủy Roma cổ đại, Hoàng đế của Roma suy tàn.

Cứ như thế, tôi hoàn thành hai điều kiện dứt khoát phải có. Tiếp theo phải ôn tập lại mới được. Điều kiện thứ nhất chính là người dọn phân, người thiếu nữ xứ Orleans và mùi mồ hôi của những binh sĩ. Điều kiện thứ hai là Shokyokusai Tenkatsu và Cleopatra.

Vẫn còn thêm một điều kiện nữa buộc phải nói đến.

Khi đọc truyện cổ tích dành cho trẻ con, tôi lại không hề yêu những công chúa, chỉ yêu hoàng tử. Những hoàng tử bị giết, những hoàng tử mang số mệnh buộc phải chết, tôi lại càng yêu hơn. Tôi yêu toàn bộ những nam thanh niên, những người dù trẻ tuổi đã bị bóng đen của cái chết phủ lên đầu.

Thế mà tôi vẫn chưa hiểu. Truyện cổ tích Andersen có một câu chuyện tên là: Nàng tiên hoa hồng . Một chàng trai trẻ tuổi đẹp đẽ bị lũ người xấu sát hại bằng dao trong lúc trao nụ hôn cho bông hoa hồng - kỷ vật mà người chàng yêu để lại. Câu chuyện chỉ có thế nhưng để lại trong lòng tôi một nỗi buồn sâu sắc. Tại sao trong nhiều câu chuyện cổ tích về thiên nhiên, ví dụ như Nàng tiên cá và anh ngư dân , hình ảnh xác chết bị sóng đánh dạt vào bờ khi vẫn ôm chặt nàng tiên cá khiến tôi bị mê hoặc đến vậy.

Đương nhiên, tôi cũng yêu thích những thứ mà một đứa trẻ yêu thích. Trong kho truyện cổ tích Andersen tôi còn thích cả truyện Chim Dạ Oanh , ngoài ra tôi cũng thích truyện tranh dành cho trẻ con. Nhưng trái tim tôi luôn hướng về phía cái chết, đêm tối và máu, không cách nào dừng lại được.

Ảo tưởng về những hoàng tử bị giết kiên trì đuổi theo tôi. Bộ dạng mặc quần bó của họ kết nối với suy nghĩ mơ mộng về cái chết tàn khốc, tại sao lại đầy khoái cảm như thế, ai có thể giải thích cho tôi hiểu được nhỉ?

Trong một câu chuyện cổ tích Hungary nọ. Trên ấn bản nguyên sắc, bức tranh minh họa ấn tượng đến nỗi khiến tôi say mê trong một thời gian dài. Đó là bức tranh vẽ một hoàng tử mặc quần bó màu đen, một chiếc áo khoác màu hoa hồng thêu những sợi chỉ vàng trước ngực, choàng áo măng tô màu xanh đậm, vạt áo bị lật lên nhìn ra lớp lót đỏ tươi. Đai lưng màu vàng ánh kim và xanh lục quấn quanh eo. Vũ trang của chàng là mũ giáp màu vàng lục, thanh đao đỏ thẫm, ống đựng mũi tên bằng da màu xanh. Tay trái chàng đeo găng tay da màu trắng, cầm một cây cung, tay phải bám vào ngọn cây cổ thụ. Với vẻ mặt khổ sở, chàng căng thẳng nhìn xuống dưới, nơi có cái miệng đáng sợ của con rồng đang điên cuồng tấn công chàng. Đó là vẻ mặt quyết chí đến cùng cho dù phải chết đi nữa. Nếu chàng hoàng tử mang theo vận mệnh của kẻ thắng cuộc, chinh phục được con rồng thì niềm hứng thú chàng mang đến cho tôi cũng sẽ nhạt nhòa dần đi. Nhưng may mắn thay, chàng lại là kẻ bại trận và phải chết.

Đáng tiếc số mệnh phải chết của chàng lại không hoàn hảo. Để cứu em gái và được kết hôn với công chúa vốn là một nàng tiên xinh đẹp, chàng phải vượt qua được thử thách của cái chết bảy lần. Nhờ có pháp lực của viên kim cương đã ngậm trong miệng từ trước, bảy lần chết là bảy lần chàng được hồi sinh, cuối cùng chàng cũng thành công và có được hạnh phúc. Bức tranh bên phải chính là mô tả lần chết thứ nhất của chàng, chết vì bị rồng ăn thịt. Về sau, chàng còn gặp phải nhiều lần chết khác như bị nhện khổng lồ cắn, truyền nọc độc vào người rồi bị nó nhai ngấu nghiến, bị đuối nước, bị lửa thiêu, bị ong đốt và rắn cắn, bị ném xuống một cái hố cắm đầy đao sắc nhọn, toàn thân mang vô số vết thương, bị những hòn đá lớn từ trên trời rơi xuống đầu như mưa.

Việc bị rồng ăn thịt được viết một cách chi tiết như sau:

“Con rồng nhai ngấu nghiến thân thể của chàng hoàng tử. Trong lúc bị nhai nát, đau đớn khôn cùng chàng vẫn cắn răng chịu đựng. Khi thân thể nát bấy, đột nhiên xương thịt liền lại, trở lại hình dáng ban đầu, chàng khẽ khàng từ miệng con rồng phi ra ngoài. Trên thân thể lúc này chẳng hề có một vết thương nào cả. Con rồng gục xuống, chết luôn tại chỗ.”

Tôi đọc đi đọc lại chi tiết này đến một trăm lần. Nhưng có một thiếu sót không thể bỏ qua là chi tiết “Trên thân thể chẳng hề có một vết thương nào”. Đọc xong cảm thấy như bị tác giả phản bội, tôi nghĩ rằng ông ta đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng.

Cuối cùng, tôi đã nghĩ ra một cách, đó là khi đọc đến chỗ này, lấy tay che đi từ chỗ “đột nhiên” cho đến chỗ “con rồng” rồi đọc tiếp. Nếu làm thế thì câu chuyện cổ tích này thực sự là một câu chuyện lý tưởng. Câu chuyện được đọc lại như thế này:

“Con rồng nhai ngấu nghiến thân thể của chàng hoàng tử. Trong lúc bị nhai nát, đau đớn khôn cùng chàng vẫn cắn răng chịu đựng, khi thân thể trở nên nát bấy, chàng cứ thế gục xuống chết luôn tại chỗ.”

Cắt xén câu chuyện như thế, nếu độc giả là người lớn thì có thể nhìn ra sự ngớ ngẩn không nhỉ? Dù người kiểm duyệt dễ dàng u mê trong sự tùy hứng ngây thơ và kiêu ngạo của tôi đi nữa thì cũng sẽ nhìn ra rõ ràng ý nghĩa mâu thuẫn của hai câu “Gục xuống chết luôn tại chỗ” và “Lúc thân thể nát bấy”, nhưng bỏ câu nào đi cũng là một quyết định thật sự khó khăn.

Tôi có một cảm giác vui sướng tột cùng khi tưởng tượng ra việc mình bị giết chết hoặc tử trận. Thế mà tôi lại sợ hãi cái chết nhiều hơn người khác bội phần. Buổi sáng, sau khi bắt nạt cô người hầu khiến cô ta phát khóc, một cô người hầu khác, bằng khuôn mặt mỉm cười như thể chẳng có chuyện gì xảy ra đem bữa sáng đến cho tôi. Từ nụ cười mỉm đó, tôi đọc ra được vô số thông tin. Đây chẳng phải nụ cười tà ác khi đoán trước được thắng lợi của mình hay sao? Chắc chắn cô ta đã cho thuốc độc vào canh miso của tôi rồi. Vì nghĩ thế nên tôi không hề động vào bát canh trong bữa sáng ấy. Và sau khi bữa ăn kết thúc, lúc rời ghế ngồi, với điệu bộ như thể muốn nói “Đã nhìn thấy chưa?”, tôi cứ thế nhìn chằm chằm vào gương mặt cô hầu gái một lúc lâu. Cô ta đứng bên kia chiếc bàn, không hề cảm thấy mất nhuệ khí khi kế hoạch hạ độc bị phát giác mà lạnh lùng nhìn vào bát canh miso gần như còn nguyên, đang vẩn bột tương.

Vì bà tôi thương tôi yếu bệnh, không muốn tôi gặp phải những sự việc tồi tệ nên cấm chỉ tôi chơi với lũ con trai gần nhà. Ngoài hầu gái và y tá, bà chọn ra ba đứa con gái hàng xóm mà tôi được phép chơi cùng. Tiếng ồn ào, tiếng đóng mở cửa mạnh, tiếng còi đồ chơi, trò vật nhau kiểu như đấu Sumo, tất cả âm thanh nghe rõ mồn một ấy chạm vào dây thần kinh ở đầu gối bên phải của bà, khiến nó đau nhức. Bởi vậy mà những buổi chơi đùa của chúng tôi đơn giản chỉ là những trò tĩnh lặng của bọn con gái. So với những buổi đi chơi tẻ nhạt ấy thì việc đọc sách một mình, chơi trò xếp hình nhà cửa, chìm vào ảo tưởng hoặc vẽ một bức tranh khiến tôi yêu thích hơn. Sau đó, em gái và em trai tôi lần lượt được sinh ra. Bố tôi quan tâm chăm sóc, dạy dỗ chúng một cách tự do giống như những đứa trẻ khác, (bố không giao các em tôi cho bà giống như tôi), nhưng tôi chưa bao giờ có cảm giác ghen tị với sự tự do, phá phách của các em mình.

Vậy mà việc đến nhà em họ chơi đã thay đổi tất cả. Thậm chí, đến cả một đứa trẻ như tôi cũng bị yêu cầu phải về đúng vị trí, làm một đứa con trai. Em họ tôi tên là Sugiko. Thời điểm đó là vào đầu mùa xuân năm tôi lên bảy tuổi, trước khi vào tiểu học. Trong chuyến đi này đã có những việc đáng nhớ xảy ra. Khi bà dắt tôi bước vào nhà em họ, những người nhà ấy tấm tắc khen tôi, “đã lớn thế này rồi kia à?”. Bữa cơm họ mang ra mời tôi là một phần ăn đặc biệt ngoại lệ. Như đã kể trước đây, bệnh tự nhiễm độc đường máu của tôi thường phát tác nên cho đến lúc này bà cấm tôi ăn cá da xanh. Tôi chỉ biết đến mấy loại cá thân trắng như cá bơn vỉ, cá bơn mắt phải [18] , cá tráp, nếu là khoai tây thì chỉ biết đến khoai tây nghiền, trong các loại bánh kẹo thì thứ gì có bột đậu đen đều bị cấm. Vậy nên tôi chỉ biết đến bánh xốp hoặc bánh bích quy có đặt một ít quýt hoặc vài lát táo mỏng lên trên. Con cá da xanh đầu tiên mà tôi ăn là cá cam. Tôi đã ăn nó bằng cảm giác sung sướng vô cùng. Mùi vị này khiến tôi cảm thấy mình đã được cấp cho tư cách làm người lớn. Vậy mà bất cứ lúc nào cảm giác này ùa đến, tôi cũng ghi nhớ luôn cả cảm giác đè nặng không thoải mái, đầy lo lắng rằng, “trở thành người lớn thật là bất an”, bởi vậy luôn có một chút dư vị khổ đau lưu lại trên đầu lưỡi.

Sugiko là một đứa trẻ khỏe mạnh, hiếu động. Khi ở lại nhà em họ, tôi được sắp xếp ngủ cùng phòng với em. Tôi luôn khó ngủ nên có chút ghen tị và hâm mộ Sugiko, cứ đặt lưng xuống giường là ngủ như một cái máy. Ở nhà em họ, tôi được tự do hơn nhiều so với ở nhà mình. Đối thủ tưởng tượng có thể cướp đoạt tôi, tức là cha mẹ tôi không có ở đây nên bà an tâm để tôi chơi đùa tự do. Bởi cũng chỉ quanh quẩn trong nhà nên bà không cần phải giữ tôi trong tầm mắt mình nữa.

Dù được cho phép, tôi cũng chẳng thể hưởng thụ tự do đến mức độ đó. Tôi cảm thấy gò bó giống như bị cưỡng bức thực hiện một nghĩa vụ vô hình, như thể người bệnh mới bắt đầu đi bộ trở lại sau khi hồi phục, tự nhiên lại cảm thấy luyến tiếc giường bệnh. Và ở chính căn nhà này, trong lúc chẳng ai giải thích rõ ràng cho tôi hiểu thì tôi bị yêu cầu làm một đứa con trai như mọi đứa con trai khác. Vậy là buổi biểu diễn chẳng mấy hứng thú bắt đầu. Từ đó tôi mơ hồ lý giải cách thức biểu diễn của mình chính là phản chiếu một thứ Tôi tự nhiên nhất trong con mắt người khác, là biểu thị lời thỉnh cầu muốn trở về bản chất của chính tôi.

Buổi biểu diễn vô vọng ấy tóm lấy tôi, ra lệnh cho tôi “hãy chơi trò đánh trận giả đi”. Người chơi cùng tôi có hai cô em họ, một đội ngũ chẳng thích hợp để chơi trò đánh nhau. Huống hồ họ cũng chẳng lấy gì làm nhiệt tình với trò chơi này. Tôi đề xuất chơi trò trận giả chính là phản bội lại tình thân, sự phản bội khi mà thay vì nịnh nọt họ thì tôi lại ít nhiều gây khó khăn cho họ. Lúc chạng vạng, từ trong ra đến ngoài căn nhà, chúng tôi tụ tập một cách buồn chán rồi vụng về chơi trò đánh trận giả. Trong bụi cây, Sugiko bắt chước tiếng súng đang bắn ra. Tôi nghĩ mình phải nhìn ngó những nơi khác mới được. Và rồi tôi chạy vào trong nhà. Khi thấy những nữ binh sĩ đuổi theo miệng liên tục phát ra tiếng pằng pằng, đột nhiên tim tôi đau nhói, ngã ngay vào chiếc ghế.

“Anh sao thế?”

Những nữ binh sĩ xúm lại với vẻ mặt cực kỳ nghiêm trọng. Mắt không chớp, tay chân bất động, tôi trả lời:

“Anh sắp tử trận rồi.”

Tôi làm ra tư thế vặn vẹo, cảm thấy hạnh phúc khi tưởng tượng ra dáng vẻ ngã xuống của mình. Cảm giác thống khoái không bút nào tả nổi khi nghĩ bản thân đang trong tình trạng bị bắn gục và sắp chết. Giả như thật sự trúng đạn, có lẽ tôi cũng chẳng cảm thấy đau đớn gì.

Thời thơ ấu...

Va chạm với cảnh tượng giống như một sự tượng trưng, cho đến bây giờ, tôi vẫn cho rằng đó chính là thời thơ ấu. Khi nhìn thấy cảnh tượng đó tôi liền nghĩ rằng từ đây thời thơ ấu đã dứt khoát muốn buông tay khỏi tôi. Thời gian mang tính nội tại của tôi, từ bên trong tôi trỗi dậy, được giữ lại ở phía trước bức tranh này, mô phỏng một cách chính xác âm thanh, hành động và nhân vật trong tranh. Tôi đoán rằng quang cảnh ấy đã được mô tả lại một cách hoàn hảo, đồng thời diễn ra cùng một lúc với bản gốc, đáng lẽ trong chớp mắt sẽ tan ra nhưng bị tôi giữ lại. Đó chẳng khác nào sự mô tả duy nhất, có thể nói là tiêu bản chính xác nhất của thời thơ ấu trong tôi. Trong thời thơ ấu của bất cứ ai thì sự việc giống như thế này chắc chắn đều được chuẩn bị sẵn sàng đến từng chi tiết. Thông thường, trong đó sẽ tồn tại những chi tiết nhỏ nhặt không đáng chú ý nên mọi người cứ thế trải qua mà chẳng hề để ý chút nào.

Cảnh tượng đó là như thế này.

Đoàn người tham gia một lễ hội mùa hè nào đó lũ lượt đi qua trước cổng nhà tôi.

Bà tôi đã bắt tay với người lên kế hoạch lễ hội. Vì chân bà yếu, vì thằng cháu nên bà yêu cầu anh ta điều chỉnh đường đi của đoàn người này. Thực tế, đây đâu phải là con đường mà đáng lẽ đoàn người sẽ đi qua, nhưng bằng sự bố trí của người lên kế hoạch mà đoàn người phải đi con đường ít nhiều quanh co ngay trước cổng nhà tôi ấy. Từ đó, việc này trở thành tiền lệ, mỗi năm họ đều đi như vậy.

Tôi cùng người nhà ra đứng trước cửa. Cái cổng sắt có họa tiết trang trí theo kiểu dây leo hoa cỏ đã mở toang ra, nước sạch cũng được vảy lên vỉa hè lát đá trước cửa. Âm thanh của chiếc trống cái càng đến gần càng lắng đọng.

Giai điệu buồn của bài hát đồng ca, ca từ cũng dần vỡ vụn, xuyên qua tiếng ồn chẳng theo một quy luật nào của lễ hội như muốn thông báo chủ đề thực sự của sự rối rắm một cách vô lý đang diễn ra trước mắt. Có lẽ điều đó giống như tố cáo sự buồn bã của của việc làm tình chỉ có thể thành tựu bởi những điều phi luân một cách thành kính, một sự làm tình cực kỳ thô tục giữa vĩnh cửu và con người. Trong tập hợp của vô số âm thanh khó lý giải, nghe ra tiếng hét hỗn tạp của những người khiêng kiệu, tiếng rung trầm bổng của trống cái, tiếng những lá kim loại va vào nhau trên chiếc tích trượng của những người đi đầu. Trong ngực tôi (từ thời điểm đó, những hy vọng mạnh mẽ, là đau khổ thì đúng hơn là hạnh phúc) rít lên một cách ngột ngạt đến mức ngôn từ không thể thoát ra khỏi miệng. Giáo sĩ cầm cây tích trượng, đeo mặt nạ mặt cáo. Con mắt màu vàng của con vật thần bí đó nhìn tôi chằm chằm giống như thể muốn thôi miên tôi. Bất giác, tôi tóm lấy bàn tay người nhà đang đứng bên cạnh. Bởi thứ niềm vui quá gần với sự sợ hãi mà đoàn người trước mắt gây ra, tôi cảm thấy muốn bỏ chạy nếu có thể. Thái độ hướng về cuộc đời của tôi từ đây về sau chính là như thế. Bởi quá nhiều thứ phải chờ đợi, quá nhiều thứ phải điểm tô sẵn bằng tưởng tượng, rốt cuộc ngoài cách bỏ chạy ra cũng chẳng còn cách nào khác.

Cuối cùng, chiếc thùng quyên góp có gắn shimenawa [19] được những người làm tạp dịch lễ hội khiêng qua. Theo sau là chiếc kiệu của bọn trẻ con nhảy lên rồi xoay vòng vòng khiếm nhã. Tiếp đến là chiếc kiệu lớn trang nghiêm sơn màu đen và màu hoàng kim. Từ xa có thể nhìn thấy bộ dạng rúng động chói lóa của con phượng hoàng màu vàng trên đỉnh kiệu giống như một con chim nổi trôi giữa những lớp sóng người. Bộ dạng của con chim ấy mang đến cho chúng tôi cảm giác bất an, một kiểu bất an quá ư lộng lẫy. Xung quanh cái kiệu, bầu không khí lặng gió độc hại đang tụ lại giống hệt không khí vùng nhiệt đới. Chiếc kiệu nhìn như thể đang nhiệt tình đu đưa bằng sự lười biếng đầy ác ý trên đôi vai trần của những người trẻ tuổi. Chiếc dây thừng màu hồng phấn, tay vịn lan can màu vàng sơn đen, đằng sau cánh cửa bôi bột màu vàng đã bị chen lấn đến tắc nghẽn là một vùng tăm tối rộng khoảng hơn một mét vuông. Trong buổi trưa đầu hạ không một gợn mây, bóng tối trống trải hình vuông đang nhảy nhót, liên tục lắc qua lắc lại từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, công khai ngự trị.

Chiếc kiệu đi qua trước mặt chúng tôi. Đám đông trẻ tuổi khiêng kiệu mặc những bộ yukata giống nhau, để lộ phần lớn da thịt, di chuyển bằng bộ dạng nhấp nhổm như thể tự thân chiếc kiệu đang phát cuồng. Đôi chân họ vướng vào nhau, đôi mắt họ không nhìn vào một thứ nào cụ thể. Một thanh niên cầm theo một chiếc quạt lớn vừa hét lên những tiếng lanh lảnh vừa chạy lăng xăng xung quanh đoàn người và kích động họ. Thỉnh thoảng, chiếc kiệu nghiêng ngả run rẩy. Sau đó, nó lại lặp lại hành động trong tiếng cổ vũ điên cuồng.

Nhìn qua thì đoàn người này có vẻ vẫn duy trì cùng một nhịp độ bước đi theo hàng theo lối, nhưng chẳng biết người lớn nhà tôi có linh cảm thấy trước điều gì hay không mà đột nhiên một bàn tay tóm lấy tôi, đẩy về phía sau. Rồi ai đó hét lên, “Nguy hiểm đấy”. Những việc diễn ra sau đó, tôi hoàn toàn không hiểu. Tôi bị kéo tay chạy khỏi cổng, qua sảnh, phi vào trong nhà. Rồi lại cùng với ai đó leo lên tầng hai, ra ban công nín thở nhìn vào đoàn người lúc ấy đang rước chiếc kiệu màu đen lũ lượt ùa vào sân trước nhà tôi.

Cho đến tận sau này, tôi vẫn luôn tự hỏi rằng: có thứ sức mạnh nào đó khiến họ hành động bốc đồng như thế không nhỉ? Tôi không thể nào hiểu nổi, tại sao hàng chục thanh niên lại có cùng một ý muốn ùa vào phía trong cánh cổng nhà tôi theo kiểu rất có kế hoạch như thế?

Bụi cây bị giẫm đạp hoàn toàn. Một lễ hội thực sự. Nơi trước cánh cổng luôn bị tôi chán ghét đã thay đổi thành một thế giới khác. Chiếc kiệu chạy quanh sân, những người khiêng kiệu đạp vào bụi cây kêu răng rắc. Thậm chí nếu lúc đó có điều gì xảy ra đi nữa, tôi cũng khó mà nhận ra được. Sự im lìm đông đặc tạo thành từ nhiều loại âm thanh quyện vào nhau và những tiếng ầm ầm vô nghĩa thay phiên nhau dội đến. Màu sắc cũng mang đến cảm giác giống như vậy, màu hoàng kim, màu chu sa, màu tím, màu xanh lục, màu vàng, màu xanh đậm, màu trắng sôi sục cảm giác sống động, có lúc là màu hoàng kim, lúc khác lại là màu chu sa, như thể dùng một màu sắc chi phối toàn bộ cảnh trí.

Nhưng có duy nhất một ý niệm mới mẻ làm tôi giật mình, làm tôi đau nhói, đổ đầy cõi lòng tôi một nỗi muộn phiền không rõ lý do. Đó là cho dù trong thế giới của những người khiêng kiệu đi nữa thì cũng chỉ là thứ cảm xúc say sưa bừa bãi, một sự say sưa rất hiển nhiên.

***Line Note Zone***

Tức trận đại động đất Kanto năm 1923. (Các chú thích trong sách đều của dịch giả thêm vào.)

Tác giả dựa trên sự kiện ông nội mình là Hiraoka Sadataro, vào năm Minh Trị thứ 41 (1908) đến năm Đại Chính thứ 2 (1913) làm Trưởng quản vùng thuộc địa Karafuto (nay là vùng Sakhalin thuộc Nga), từ chức do dính dáng đến vụ bê bối Karafuto nhưng sau đó được tuyên vô tội.

Theo phong tục Nhật Bản, người ta thường tổ chức bữa tiệc chúc mừng trẻ con mới sinh được bảy ngày.

Loại giấy truyền thống của Nhật, có chất lượng cao, thường được dùng vào những dịp quan trọng.

Loại khay có đế cao, để đặt đồ cúng tế hoặc vật quý.

Trong một căn phòng kiểu Nhật thường có một cái hốc tường dùng để thờ hoặc để đặt những đồ quý giá trang trí cho căn phòng.

Vu nữ: Những phụ nữ phục vụ tại đền thờ Shinto. Họ biểu diễn những điệu múa mang tính lễ nghi trong đền và hỗ trợ pháp sư trong những dịp lễ lạt. Vu nữ phải là trinh nữ.

Một kiểu giày lao động ở Nhật với mũi giày chia ra làm năm ngón để đút năm ngón chân vào, đế bằng cao su.

Joris Karl Huysmans là nhà văn, nhà phê bình nổi tiếng người Pháp.

Nam tước de Rais, một hiệp sĩ kiêm lãnh chúa, một nhà lãnh đạo trong quân đội Pháp, người đồng hành và cấp dưới của Jeanne d’Arc. Ông từng gây dựng được tên tuổi nhưng sau đó bị kết án bởi tội danh sát hại và hiếp dâm hàng loạt trẻ em.

Thánh Augustinus hay còn gọi là Thánh Âu Tinh của giáo hội Cơ Đốc, là nhà triết học, thần học có ảnh hưởng của triết học phương Tây. Ông là người khởi xướng thuyết tiền định. Theo đó định mệnh quy luật cố định thuộc về tự nhiên, không thể cưỡng lại.

Thuyết định đoạt là học thuyết cho rằng tất cả các sự việc xảy ra là tất yếu và không thể tránh được. Quan điểm này dựa trên quan điểm chặt chẽ của luật nhân quả và cố gắng định nghĩa rõ ràng nguyên nhân kết quả để chứng minh thuyết định đoạt là chính xác.

Một nữ ảo thuật gia người Nhật, nổi tiếng vào khoảng cuối thời Minh Trị đến những năm đầu thời Chiêu Hòa.

Một gánh xiếc thú gồm nhiều động vật lớn của Đức, lần đầu đến Nhật tháng Ba năm Chiêu Hòa thứ 8, biểu diễn tại Đại hội Trẻ em, Phụ nữ quốc tế Tokyo.

Cuốn cuối cùng của kinh Tân Ước. Dòng thứ 4 chương 17 có viết: “Người đàn bà ấy mặc trang phục màu tím và màu đỏ, trang sức gồm toàn vàng, bảo thạch và trân châu, tay cầm chén vàng đựng đầy đồ gớm ghiếc và dâm uế.”

Tên thường gọi của Michele Pezza, một lãnh đạo du kích nổi tiếng đã chống lại sự chiếm đóng của Pháp ở Napoli (Italia) những năm cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Đây là nhân vật rất nổi tiếng trong truyền thuyết và tiểu thuyết dân gian Ý.

Hoàng đế Roma gốc Syria, trị vì từ năm 218 đến năm 222. Ông công khai mình đồng tính, thích trang điểm thành phụ nữ và xem một người đàn ông như chồng mình. Hoàng đế hứa chia nửa đế quốc cho thầy thuốc nào giúp ông biến thành phụ nữ.

Loài cá bơn sống ở đáy biển nên hai mắt đều ở phần bên phải.

Shimenawa: là những sợi rơm được bện xoắn vào nhau cùng với các vật tượng trưng khác như lá thông (hoặc lá dương xỉ) tượng trưng cho sự may mắn mở mang, một quả cam (hoặc quýt) có màu cam đẹp mắt, biểu tượng của sự tiếp nối, cùng với các loại bùa may mắn và đồ trang trí khác.