Chương 3
Người ta thường nói cuộc đời chính là một sàn diễn. Nhưng tôi không nghĩ rằng những kẻ vẫn bị ý thức về sàn diễn ấy tóm lấy sau khi thời thơ ấu kết thúc giống như tôi là đa số. Đó là một suy nghĩ khá đúng đắn nhưng vì kết hợp với sự nông cạn của kinh nghiệm sống có phần nghèo nàn nên ở đâu đó trong trái tim, tôi nghi ngờ rằng người khác không chạm tới cuộc đời theo cách giống như tôi. Mặc dù vậy, lúc ấy khoảng bảy phần cảm giác của tôi lại tưởng rằng mình bắt đầu cuộc đời giống y như mọi người. Tôi tin tưởng một cách đầy lạc quan rằng, cứ kết thúc vai diễn là màn nhất định sẽ hạ xuống. Giả thuyết chết sớm của tôi tiếp nhận suy nghĩ đó, nhưng rồi thứ chủ nghĩa lạc quan đến mức độ ảo tưởng này của tôi phải hứng chịu một sự báo thù cực kỳ khốc liệt.
Để cho chắc chắn thì phải nói thêm, những việc tôi nói ở đây không phải là một ví dụ về sự tự ý thức . Đó đơn giản là vấn đề của tính dục, những thứ không thuộc phạm trù này vẫn chưa được tôi kể ra.
Ngay từ đầu, tôi đã bị liệt vào thành phần học sinh yếu kém, việc này cho dù là do tư chất bẩm sinh đi nữa nhưng vì muốn lên lớp như những học sinh bình thường khác nên tôi vẫn phải sử dụng một cách thức tạm thời. Tức là trong khi làm bài thi, hoàn toàn chẳng hiểu nội dung nhưng cứ sao chép nguyên đáp án của bạn rồi nộp bài bằng khuôn mặt giả ngây giả ngốc. Cách thức trơ trẽn, thể hiện sự ngu xuẩn hơn cả quay cóp bài này đôi khi cũng thu được những thành quả bề nổi.
Anh lên lớp. Lớp trên lấy những tri thức học được ở lớp dưới làm tiền đề cho những bài giảng, chỉ riêng anh hoàn toàn không hiểu, nghe giảng như vịt nghe sấm. Bởi thế, con đường mà anh đi chỉ có hai ngả rẽ. Ngả thứ nhất là nổi loạn để trở nên hư hỏng, ngả thứ hai là giả bộ đã hiểu một cách sâu sắc vấn đề. Chọn đường nào là vấn đề được quyết định bởi chất lượng sự mạnh mẽ và sự yếu đuối của anh, không phải là quyết định của số lượng. Bởi dù chọn ngả rẽ nào thì cũng cần lượng mạnh mẽ và lượng yếu đuối như nhau mà thôi. Và ở phía nào cũng cần khao khát lâu dài, những khao khát thơ mộng về sự lười biếng.
Một lần, tôi nhập vào đám học sinh vừa đi bộ bên ngoài hàng rào của trường học, vừa bàn tán ồn ào câu chuyện đồn đại về một đứa bạn không có mặt tại đây, rằng cậu ta có lẽ đã phải lòng cô gái bán vé trên tuyến xe bus từ trường về nhà. Câu chuyện đồn đại ấy cuối cùng thay bằng quan điểm phổ biến rằng liệu một cô gái bán vé trên xe bus thì có điểm nào đáng để yêu thích. Bằng điệu bộ lạnh nhạt của kẻ đã hiểu vấn đề, tôi nói như ném ra từng lời.
“Ừ thì là bởi đồng phục đấy. Đồng phục bó sát vào người không phải rất đẹp sao?”
Tất nhiên, tôi hoàn toàn không hề bị cô gái bán vé xe bus mê hoặc về mặt xác thịt. Suy đoán. Là một suy đoán hoàn toàn trong sáng nhưng sự huênh hoang đúng kiểu một đứa trẻ con, luôn thích bày tỏ quan điểm giống một kẻ háo sắc có khí chất lạnh nhạt, ra vẻ người lớn về một câu chuyện đã giúp sức thúc đẩy tôi nói ra những lời như vậy.
Phản ứng của tôi có lẽ hơi thái quá. Đám người này thuộc phái ôn hòa, ở trường là học sinh ngoan, thái độ cư xử nói chung không chê vào đâu được. Từng người một đáp lại tôi như sau:
“Bất ngờ đấy. Cậu cũng khá đấy chứ.”
“Nếu không có nhiều kinh nghiệm thì không nói liều được đâu.”
“Cậu ấy mà, cũng có vẻ ghê gớm đấy.”
Khi nhận được những lời chỉ trích đầy cảm xúc dành cho mình bằng sự ngây thơ đến thế, tôi nhận ra rằng chút thuốc kích thích tôi dành cho họ hẳn đã quá liều. Trong những tình huống tương tự, dùng lời thành thật thì chẳng có gì đáng chú ý nên cách nói như thế khiến tôi có vẻ là kẻ trải đời. Vậy mà ngay sau đó tôi thật sự hối hận, đáng lẽ ra nên lựa lời mà nói thì hơn.
Một đứa trẻ mới lớn mười lăm, mười sáu tuổi khi có những hành động được điều khiển bởi suy nghĩ không phù hợp với tuổi tác, sai lầm dễ mắc phải chính là nghĩ rằng để bản thân mình không đơn giản như lũ bạn thì phải có một hành động kiểu như vậy. Không phải thế. Việc này chính là sự bất an của tôi, sự không kiên định của tôi đang đòi hỏi một quy tắc về ý thức sớm hơn bất cứ ai. Suy nghĩ của tôi chẳng hơn gì một thứ đạo cụ của sự hoảng loạn, hành động của tôi chẳng qua là một hành động ba phải, tự mình đoán mò ra. Theo định nghĩa của Stefan Zweig thì “những điều tà ác chính là thứ vốn dĩ tồn tại ở bên trong con người, nguồn sống của nó chính là sự bất an ( Unruhe ) khi con người bị dồn đuổi về phía vô hạn, vượt lên trên bản thể, đi ra ngoài bản thể cá nhân của chính mình”. Và điều đó “cứ thế một cách tự nhiên từ bên trong sự hỗn độn của quá khứ để lại một bóng ma làm hiện ra một phần của nỗi bất an không thể nào gỡ bỏ”, một phần của bất an này mang theo sự căng thẳng, “khiến chúng ta tìm lại được cảm giác tự tôn và con người tự tôn trong chính bản thân chúng ta”. Tại nơi mà suy nghĩ kiểu này chỉ có thể được lý giải một cách đơn giản thì con người không ý thức được đầy đủ là đương nhiên.
Tự thân tôi không hề bị những quyến rũ xác thịt từ cô gái bán vé xe bus làm cho mê mẩn, thế mà lời nói phát ra một cách tự nhiên khi không biết lựa lời cùng những suy đoán hồn nhiên của tôi lại khiến lũ bạn bất ngờ, khiến chúng phải đỏ mặt vì ngại ngùng, vả chăng khả năng liên tưởng nhạy cảm của tuổi dậy thì khiến chúng bị lời nói của tôi trực tiếp kích thích nhục cảm mơ hồ. Đương nhiên sau đó, sự tự cao tự đại xấu xa rất con người sôi sục trong tôi. Nhưng cảm xúc của tôi không chịu dừng lại ở đó. Lần này tới phiên chính tôi phải im lặng. Sự tự cao tự đại này làm người ta tỉnh ngộ một cách rất chông chênh. Rồi rơi vào mê lộ như thể một phần của sự tự cao tự đại trở thành ảo tưởng sức mạnh, trở thành cảm giác trúng độc chính bởi thứ suy nghĩ mình tiến bộ hơn hẳn người khác, nếu một trong những bộ phận trúng độc này được giải độc sớm hơn các bộ phận khác thì cứ mặc kệ những bộ phận khác vẫn còn trúng độc mà phạm phải sai lầm được tính toán bằng ý thức đã giải độc toàn bộ. Bởi vậy cơn trúng độc suy nghĩ “mình tiến bộ hơn người” bị điều trị cho đến khi nhận thức được một cách khiêm nhường rằng: mày cũng là một con người giống hệt những người khác mà thôi. Bởi tính toán sai lầm của tôi mà điều đó có thể nói rộng ra theo kiểu: mày cũng là một con người mang gốc rễ tầm thường giống hệt những người khác, (nghĩa rộng này được bộ phận chưa được giải độc nhiệt tình ủng hộ), cuối cùng thì dẫn đến kết luận trơ trẽn: tất cả mọi người đều như thế. Từ thời điểm này trở đi, suy nghĩ chẳng khác gì đạo cụ của sự hoảng hốt càng trở nên mãnh liệt hơn... Và rồi tôi hoàn toàn biến thành một kẻ tự kỷ ám thị. Sự tự kỷ ám thị này, sự tự kỷ ám thị đầy phi lý, đểu cáng và giả dối, thậm chí đến tôi cũng nhận ra đó rõ ràng là lường gạt thế mà từ thời điểm đó, nó tối thiểu cũng chiếm 90% cuộc sống của tôi. Đến mức tôi nghĩ rằng có lẽ mình là loại người yếu bóng vía đã bị ma nhập rồi.
Người đang đọc những điều tôi viết chắc là hiểu rõ. Tôi có thể bật ra lời nói mang chút nhục cảm về cô gái bán vé trên xe bus, chẳng qua chỉ bởi một lý do đơn giản, thế mà tôi lại không hề chú ý. Lý do đó thực sự rất đơn giản, tôi thực ra không hề có sự ngượng ngùng bẩm sinh giống như những đứa con trai khác về những việc liên quan đến phụ nữ.
Để tránh khỏi sự vu khống rằng đang cố gắng phân tích bản thân của quá khứ bằng suy nghĩ trong hiện tại thì tôi muốn chép lại đây một đoạn văn tôi đã viết năm mười sáu tuổi.
Rikutaro chẳng hề do dự lao vào một mối quan hệ mà cả hai không mấy hiểu về nhau. Anh ta tin rằng bằng việc thích thú hoặc cố tỏ ra thích thú thì sẽ hãm lại được cảm giác ghen tị và buồn bã. Sự mù quáng, yếu tố cần thiết của tín ngưỡng, đặt anh ta vào trong một hình dáng tĩnh lặng khốc liệt. Vừa tham gia vào những lời đùa cợt ngu ngốc và những câu chuyện phiếm vụn vặt vừa thường xuyên nghĩ, “hiện giờ tôi chẳng bế tắc cũng chẳng chán nản”. Anh ta gọi điều đó là “quên đi đau khổ”.
Những người xung quanh đặt ra nghi vấn rằng, có phải anh ta luôn cảm thấy hạnh phúc không, có phải luôn thấy thoải mái không? Đó là sự tồn tại đúng đắn của hạnh phúc giống như cái thứ sự thực gọi là nghi vấn được củng cố một cách chắc chắn hơn.
Tuy nhiên, chỉ mình Rikutaro đặt bản thân vào bên trong niềm tin đi kèm với định nghĩa rằng: “bản thân thoải mái”.
Cứ thế, cảm giác của mọi người nghiêng hẳn về cảm nhận nói nôm na: Anh ta chắc chắn là thoải mái.
Rốt cuộc, mọi thứ mờ nhạt lại khá chân thực, bị chôn chặt bên trong guồng máy của sự giả dối. Guồng máy này hoạt động vô cùng mạnh mẽ, và rồi chẳng ai còn chú ý đến việc bản thân đang tồn tại bên trong thứ gọi là “một căn phòng lừa dối” nữa.
“Guồng máy hoạt động mạnh mẽ.”
Guồng máy hoạt động mạnh mẽ thật sao?
Thiếu sót lớn của thời niên thiếu chính là tin rằng nếu biến những xấu xa trở thành hành động anh hùng thì những xấu xa đó sẽ đem đến cho bản thân sự thỏa mãn.
Nào, dù thế nào thì thời khắc tôi phải tiến vào cuộc đời cũng đã đến rồi. Những hiểu biết đã được chuẩn bị cho chuyến du lịch này là rất nhiều tiểu thuyết, một cuốn sách chỉ dạy về chuyện tính dục, sách khiêu dâm chuyền tay nhau cùng đám bạn, những câu chuyện tục tĩu thường xuyên nghe được từ bạn bè mỗi đêm trong chuyến dã ngoại của trường... tạm thời chỉ có ngần ấy. Tính hiếu kỳ thiêu đốt đương nhiên cũng là bạn đường trung thành của tôi trong chuyến du hành này. Dáng vẻ lúc ra đi là bước chân vô cùng quyết tâm, một sự quyết tâm lấy lừa dối làm động cơ tiến bước.
Tôi nghiên cứu chi tiết rất nhiều tiểu thuyết, tìm hiểu xem những người ở độ tuổi của mình có cảm giác thế nào về cuộc sống, làm sao để đối thoại với bản thân. Không sống trong ký túc xá, không tham gia câu lạc bộ thể thao, hơn thế trong trường tôi có rất nhiều kẻ hợm hĩnh, qua thời kỳ chơi những trò vô ý thức kiểu trẻ con ý như “sờ chim” thì tuyệt nhiên không bao giờ tham gia vào những vấn đề tục tĩu nữa. Thêm vào đó là tính khí ngượng ngùng có vẻ hơi thái quá của tôi. Tất cả những điều này khiến tôi khó mà nhìn trúng được bản chất của từng người từng người một. Bởi thế tôi buộc phải thận trọng tiến hành từ những suy nghĩ cơ bản mang tính nguyên tắc đến những suy nghĩ lý trí kiểu như “một đứa con trai ở độ tuổi của mình” sẽ cảm thấy như thế nào về cuộc sống. Đúng lúc mang khuôn mặt tò mò như thiêu đốt tâm can như vậy, một thời kỳ ngắn ngủi gọi là tuổi dậy thì có vẻ đã ghé thăm tôi cũng giống như cách nó ghé thăm tất cả những đứa con trai khác. Thời kỳ này, trong đầu đám choai choai toàn là ý nghĩ chẳng ra đâu vào đâu về phụ nữ, mụn nổi lên, đầu lúc nào cũng nặng trịch những vần thơ ngọt lịm. Những cuốn sách nghiên cứu về tính dục có nói tác hại của việc thủ dâm thường xuyên, lại cũng đọc được lời một cuốn sách khác nói rằng việc thủ dâm chẳng có tác hại gì lớn. Bởi vậy mà thời gian này, những đứa trẻ mới lớn cứ thế nhiệt tình thủ dâm. Về điểm này tôi cũng hoàn toàn giống hệt chúng. Bất chấp điểm chung ấy, sự khác nhau rõ ràng về đối tượng trong cảm giác của “tật xấu” vốn có của tôi, liền bị kẻ lừa đảo trong tôi lờ đi.
Đầu tiên là chỉ vì một chữ “đàn bà”, chúng liền bị kích động mạnh. Nhân tiện, đối với tôi ký tự này không hơn gì ấn tượng khi nhìn thấy chữ “bút chì”, “xe ô tô” hay “cái chổi”. Sự khuyết tật năng lực liên tưởng cao đến mức đó, thỉnh thoảng biểu hiện ra trong những câu chuyện với bạn bè, tương tự như trường hợp câu chuyện về mẹ Katakura khiến tôi trở thành một kẻ ngốc. Chúng bạn nghĩ tôi là một nhà thơ mơ mộng. Vì không thích bị cho là giống nhà thơ (bởi loại người như nhà thơ có lẽ là kiểu thường bị phụ nữ bỏ rơi), để ăn khớp với ý tứ trong câu chuyện của bạn bè mà tôi phải tạo ra một kiểu liên tưởng giả dối.
Tôi không biết rằng, không chỉ về mặt cảm giác mà ngay cả với thứ không được biểu hiện ra ngoài, sự sai biệt giữa tôi và chúng bạn cũng quá rõ ràng. Nếu bọn họ nhìn thấy bức ảnh khỏa thân của một phụ nữ, ngay lập tức sẽ “chào cờ”. Chỉ riêng mình tôi không hề như vậy. Và đối tượng khiến tôi “chào cờ” (ngay từ đầu đã kinh qua sự tuyển chọn nghiêm khắc lạ lùng bởi tính chất của một thứ tình yêu lệch lạc), bức tượng khỏa thân của người thanh niên có nét thanh tao nhã nhặn rất nữ tính kiểu Ionia lại chẳng hề có năng lực dẫn dụ việc “chào cờ” ở họ.
Trong chương trước, tôi đã cố ý viết về việc “cậu nhỏ” cương cứng bởi việc đó có liên quan đến những sự việc trên đây. Vì những giả dối của tôi cũng bị điều khiển bằng sự vô tri giống hệt như vậy. Cho dù trong bối cảnh của nụ hôn mang tính tiểu thuyết như thế nào thì những miêu tả liên quan đến việc đàn ông “chào cờ” lúc hôn đều bị lược bỏ. Việc ấy là đương nhiên, không cần phải mất công viết ra làm gì. Thậm chí là trong sách nghiên cứu về tính dục, việc “chào cờ” lúc đang hôn cũng bị loại bỏ, không được nhắc tới. Tôi đọc được lời khuyên rằng cố gắng chỉ “chào cờ” trước khi quan hệ xác thịt, hoặc có những tưởng tượng về quan hệ xác thịt. Với tôi thì “chào cờ” bắt nguồn từ một kiểu dục vọng nào đó, đúng lúc, đột nhiên... hoàn toàn giống như một linh cảm đến từ nơi vô tận... 10% cảm giác liên tục thì thà thì thầm bằng giọng nói rất nhỏ, “trời ơi, chỉ mình mình không ‘chào cờ’”. Việc này trở thành toàn bộ nỗi bất an của tôi. Nhân đây, khi thực hành “thói xấu” kia, có lần nào đó tôi nên nghĩ về phụ nữ chăng? Dẫu cho chỉ là một sự thử nghiệm.
Tôi đã không làm thế. Tôi nghĩ rằng, việc không chịu tiến hành cuộc thử nghiệm đó chính là do sự lười biếng của tôi.
Rốt cuộc thì tôi đã không hiểu một thứ. Mỗi đêm trong giấc mơ của những đứa con trai khác trừ tôi ra đều là hình ảnh những phụ nữ mà chúng gặp hôm qua trên phố, từng người từng người một khỏa thân, đi qua đi lại. Trong giấc mơ của lũ con trai, bầu ngực đàn bà hiện ra bồng bềnh như con sứa tuyệt đẹp nổi lên trên mặt biển đêm. Bộ phận cao quý trên cơ thể những người đàn bà ấy, hé mở phần môi ướt đẫm, hàng chục lần, hàng trăm lần, hàng nghìn lần, liên tục cất lên tiếng hát của nàng tiên cá.
Vì lười biếng? Lẽ nào chính là vì lười biếng? Tôi đã hoài nghi như vậy. Toàn bộ sự chăm chỉ trong cuộc đời tôi, cuối cùng chỉ là bao biện cho sự lười biếng, cứ mặc kệ mọi thứ biếng nhác nguyên si như thế chỉ bởi cần một cảm giác an toàn.
Ngay lập tức tôi nảy ra ham muốn tập hợp lại những ký ức đã qua liên quan đến phụ nữ. Đáng tiếc, những phần ký ức ấy lại quá nghèo nàn.
Một lần, khi tôi tầm mười bốn hay mười lăm tuổi, có một việc xảy ra. Ngày bố chuyển công tác đến Osaka, sau khi đi tiễn bố ở ga Tokyo trở về thì vài người họ hàng đến thăm nhà tôi. Tức là sau chuyến đưa tiễn, họ cùng mẹ tôi, tôi, em trai, em gái tôi quay trở về căn nhà của chúng tôi. Trong số đó có chị họ Sumiko. Lúc ấy là trước khi cô kết hôn, tầm hai mươi tuổi.
Răng cửa trước của cô bị hô một chút. Khi cười, những chiếc răng cửa lóe sáng cảm giác như thể chủ nhân của chúng cố tình phô ra sự nổi bật của hai, ba chiếc răng cực kỳ đẹp đẽ, trắng sáng ấy. Kiểu rằng hơi hô kèm theo nụ cười duyên dáng khó nói nên lời. Sự mất cân đối mà những chiếc răng hô đem đến giống như những giọt hương liệu nhỏ vào cảm giác hài hòa của sự xinh đẹp, của sự tử tế trong bóng dáng và khuôn mặt, làm sự hài hòa đó thêm mạnh mẽ, tăng thêm điểm nhấn đầy hương vị mỹ miều cho vẻ đẹp của cô.
Nếu từ “tình yêu” được dùng không chính xác thì tôi có thể chữa lại rằng, tôi rất “thích” người chị họ này. Từ khi còn bé, tôi đã thích từ xa nhìn ngắm cô. Khi cô thêu thùa, tôi có thể ngồi im mơ màng bên cạnh cô cả giờ liền.
Sau khi bác gái tôi đi vào phòng trong, Sumiko và tôi cứ thế ngồi im lặng trên ghế ở phòng khách. Đám đông tiễn chân bố sau khi giẫm đạp tan hoang trong đầu chúng tôi, đến giờ vẫn chưa chịu biến mất. Tôi cực kỳ mệt mỏi.
“Ôi, mệt quá đi.”
Cô khẽ ngáp, dùng ngón tay trắng trẻo vỗ nhẹ hai, ba lần một cách uể oải vào cái miệng đã được che đi bằng chính những ngón tay ấy, như thể đang đọc thần chú.
“Em họ không mệt à?”
Chuyện gì thế này? Sumiko giấu khuôn mặt vào trong hai tay áo rồi úp khuôn mặt nằng nặng ấy lên đùi tôi. Sau đó cô chầm chậm thả lỏng, quay trở lại bộ dạng như trước, lặng thinh một lúc. Chiếc quần trên bộ đồng phục đi học của tôi run rẩy trong niềm vinh hạnh khi được gánh vác thay nhiệm vụ của một cái gối. Mùi nước hoa và mùi phấn của cô khiến tôi thẹn thùng. Khuôn mặt nghiêng nghiêng đăm đăm có đôi mắt tĩnh lặng trong vắt và mỏi mệt của cô làm tôi bối rối.
Chuyện chỉ có thế. Mặc dù vậy, lúc nào tôi cũng nhớ cái cảm giác nằng nặng xa hoa tồn tại chốc lát trên đùi mình. Không phải là cảm xúc xác thịt mà là một niềm hạnh phúc cực kỳ xa xỉ. Giống như sức nặng của một tấm huân chương.
Trên chuyến xe bus từ trường về nhà, tôi hay gặp một cô gái có vẻ ngoài mong manh. Vẻ lạnh lùng của cô thu hút tôi. Những lúc cô nhìn ra bên ngoài cửa sổ bằng bộ dạng mệt mỏi với những sự vật đáng chán bên đường thì sự căng thẳng trên đôi môi như thể đang suy nghĩ mông lung về điều gì đó của cô lại ở đúng tầm mắt tôi. Những lần không gặp cô, tôi cảm thấy chiếc xe bus thật trống trải. Không hiểu từ bao giờ, tôi lên xuống xe với niềm mong mỏi rằng cô đã có mặt ở trong xe rồi. Tôi từng nghĩ, phải chăng đó là tình yêu?
Tôi hoàn toàn không hiểu. Lúc đó, dù thế nào tôi cũng không hiểu tình yêu và tính dục có mối quan hệ như thế nào. Đương nhiên, tôi của khi đó không muốn lý giải thứ mê hoặc tà mị mà Omi đã gây ra cho tôi bằng chữ “yêu”. Tôi của khi đó nghĩ rằng chút cảm tình của mình dành cho người thiếu nữ gặp trên xe bus có lẽ là tình yêu nhưng đồng thời cũng bị quyến rũ bởi hình ảnh thô kệch của người lái xe bus trẻ tuổi lập lòe trong đầu. Suy nghĩ ngu ngốc cưỡng bức những lý giải đầy mâu thuẫn trong tôi. Trong ánh mắt tôi nhìn góc nghiêng khuôn mặt của người lái xe bus trẻ tuổi ấy, có cái gì đó muốn trốn tránh, có cái gì đó khổ sở, lại có cái gì đó đầy áp lực, còn trong ánh mắt nhìn cô gái mong manh kia, có cái gì đó miễn cưỡng, một thứ cảm giác dễ gây mệt mỏi và giả tạo. Không hiểu nổi mối quan hệ lệch pha ấy, hai ánh nhìn kia cứ thế chung sống trong tâm hồn tôi một cách dửng dưng mà chẳng hề than thở gì.
Là một thiếu niên ở lứa tuổi ấy, có vẻ trong con người tôi khuyết thiếu mất đặc tính “căm ghét những điều không đứng đắn”. Nói đúng hơn, trong tôi khuyết thiếu một thứ gọi là tố chất bẩm sinh về “tinh thần” thường thấy ở suy nghĩ của những chàng trai mới lớn. Nếu cho rằng sự tò mò quá mãnh liệt khiến tôi bỏ qua vấn đề luân thường đạo lý rồi lấy đó làm lời giải thích cho những suy nghĩ của tôi đi nữa, thì tính tò mò ấy giống hệt niềm khao khát tuyệt vọng dành cho thế giới bên ngoài của một người ốm đau liên miên. Mặt khác, sự tò mò này lại có sợi dây gắn kết không thể tách rời với một niềm tin không bao giờ trở thành hiện thực. Thứ niềm tin tôi gần như không ý thức được ấy cùng với những tuyệt vọng vô thức của tôi trở nên khoái hoạt đến nỗi những mong cầu lại bị nhìn nhầm thành sự thèm khát.
Vẫn ở lứa tuổi trẻ trung, vậy mà tôi không biết đến việc nuôi dưỡng quan niệm thuần khiết và đầy tin tưởng bên trong con người mình. Đó là bất hạnh ư? Đối với tôi, nỗi bất hạnh bình thường trong thế giới này mang ý nghĩa gì nhỉ? Sự bất an mơ hồ liên quan đến nhục cảm của tôi đại khái biến xác thịt trở thành một quan niệm của riêng tôi. Tôi tập cách tin rằng, sự tò mò không chút liên quan đến nỗi mong cầu hiểu biết, sự tò mò mang tính tinh thần và tinh sạch kia chính là ham muốn thể xác của mình. Cuối cùng, để bản thân có thể có những cảm xúc thật sự dâm loạn thì tôi lại trở nên thành thạo trong việc lừa đảo chính mình. Cứ như thế, tôi tự cho mình đã trở thành người lớn, đã trở thành một tay chơi. Tôi cũng làm ra vẻ như thể đã thực sự mệt mỏi vì đàn bà.
Rồi ngay lập tức nụ hôn cũng trở thành một quan niệm cá nhân. Biểu tượng của hành vi mang tên “nụ hôn” này, đối với tôi, thực tế chẳng khác gì biểu tượng của một nơi nào đó mà tinh thần của tôi cầu xin được trú ngụ. Nếu là tôi của hiện tại thì hoàn toàn có thể nói như thế. Nhưng vào lúc đó, vì tin tưởng mù quáng rằng mong muốn này là ham muốn thể xác nên tôi buộc phải thả trôi mình trên dòng sông giả dối ấy. Bởi vì cảm giác tội lỗi một cách vô thức gọi là giả vờ rằng mọi thứ bẩm sinh đã thế huấn luyện khả năng diễn xuất có ý thức của tôi một cách đầy cố chấp. Nhưng chẳng lẽ con người có thể phản bội thiên tính của bản thân hoàn toàn đến mức ấy sao? Cho dù chỉ là trong một khoảnh khắc đi nữa.
Nếu không nghĩ như thế thì chẳng phải cũng không thể nào mà giải thích nổi về một kiểu tình cảm mang tính thần bí gọi là khao khát những thứ không thể khao khát hay sao? Nếu đặt tôi ở phía sau con người đạo đức không khao khát những thứ mình thật sự khao khát thì chẳng phải tôi còn mang trong lòng sự cầu xin vô đạo đức hơn thế hay sao? Nếu vậy sự cầu xin của tôi chẳng qua cũng chỉ là một thứ đèm đẹp. Phải chăng từ đầu đến cuối tôi đã hành động như thể tên tù nhân của lề thói, tự mình giả mạo chính mình? Sự xem xét kỹ càng này trở thành một nghĩa vụ kiên định đối với tôi của ngày sau.
Khi chiến tranh bắt đầu, chủ nghĩa khắc kỷ giả tạo làm mưa làm gió ở đất nước này. Những học tập viện cũng không thoát khỏi vòng xoáy ấy. Niềm mơ ước được để tóc dài của chúng tôi từ những năm mới bước vào trung học, đến khi thực sự bước vào cao trung vẫn chẳng thể nào thực hiện được. Kể cả những đôi giày màu mè cũng trở thành dĩ vãng. Thời gian huấn luyện quân sự trong trường dài quá mức cần thiết, rất nhiều đổi mới có vẻ ngu ngốc được bôi vẽ ra.
Tuy thế, ở ngôi trường của tôi, chủ nghĩa hình thức kiểu giả vờ giả vịt vốn là một phong vị tinh tế mang tính truyền thống, bởi vậy trước giờ chúng tôi cứ sống trong môi trường học đường ấy mà chẳng cảm thấy một sự trói buộc quá đáng nào. Đại tá trưởng quản quân sự trong trường là một gã đàn ông khôn khéo, Chuẩn úy N vốn là cựu Thượng sĩ đặc vụ bị đặt cho biệt danh gây cười như một cách trả thù là Zutoku, xuất phát từ chất giọng vùng Tohoku của anh ta, một đồng nghiệp khác có biệt danh là Bakatoku [1] , thêm một người nữa có cái mũi thấp với cánh mũi rộng như mũi của một con kỳ lân được gọi là Hanatoku, tất cả đã khéo léo nuốt trọn phong vị riêng của ngôi trường này. Hiệu trưởng là một lão tướng hải quân có phần ẻo lả nhưng núp dưới sự che chở của cơ quan quản lý sự vụ Hoàng gia và chủ nghĩa thăng tiến vô thưởng vô phạt nên vẫn bảo vệ được vị trí của mình.
Tôi có nghĩ đến thuốc lá và rượu trong khoảng thời gian ấy. Tuy nhiên, như một đứa trẻ học đòi làm đàn ông, thuốc lá là bắt chước, rượu cũng là bắt chước. Chiến tranh mới là điều dạy chúng ta trưởng thành một cách đầy tổn thương, đó chính là suy nghĩ kết liễu đời mình ở tuổi hai mươi. Bởi vậy mà hoàn toàn chẳng nghĩ ngợi gì về tương lai. Có lẽ chúng ta nghĩ cái thứ gọi là cuộc đời là thứ nhẹ nhàng một cách kỳ quặc. Biển mặn của một cuộc đời kết thúc đúng ở tuổi hai mươi, thành phần muối sẽ càng nồng đượm, rồi người cũng nổi được trên mặt nước một cách dễ dàng. Chỉ khi thời khắc hạ màn không còn xa nữa, vở kịch mặt nạ mà tôi diễn cho chính tôi xem càng nhiệt tình diễn xuất hơn. Nhưng chuyến du hành của cuộc đời tôi sẽ xuất phát vào chính ngày mai, phải rồi, chính là ngày mai, nếu trì hoãn dù chỉ một ngày thì vài năm nữa cũng không thể khởi hành được. Đối với tôi, thời điểm này chẳng phải chính là thời khắc sảng khoái nhất hay sao? Cho dù điều đó chẳng hơn gì một nỗi bất an, một sự mơ hồ thì tôi vẫn hy vọng, ngày mai có thể ngắm nhìn cuộc sống bên dưới một bầu trời xa lạ. Ảo tưởng về chuyến đi, mơ tưởng về sự mạo hiểm, bức chân dung của một người thực sự trưởng thành mà lúc nào đó tôi sẽ trở thành, bức chân chân dung vị hôn thê xinh đẹp chưa từng thấy của tôi, hy vọng ai đó gọi tên mình... Tất cả những thứ đó vừa vặn đủ để mang theo cho một chuyến du lịch cứ như thể xà phòng, cà vạt, bít tất, áo sơ mi, bàn chải và kem đánh răng, khăn và cuốn sách hướng dẫn du lịch. Khoảng thời gian phải sắp xếp gọn gàng chiếc vali để có thể xếp vừa tất cả, đối với tôi mà nói thậm chí có chiến tranh xảy ra thì cũng mang một niềm hạnh phúc vô cùng trẻ con. Thứ mơ tưởng thừa thãi khiến tôi tin rằng cho dù có trúng đạn đi nữa mình cũng không hề cảm thấy đau đớn, thứ mơ tưởng ấy, vào thời điểm đó chẳng hề suy yếu chút nào. Thậm chí có tưởng tượng ra cái chết của bản thân đi nữa cũng khiến tôi run rẩy trong một niềm hạnh phúc mà trước đấy tôi chưa từng biết đến. Tôi cảm thấy như thể mình nắm trong tay tất cả mọi thứ. Có lẽ thế. Không có lúc nào mà chúng ta sở hữu hoàn toàn đến từng ngóc ngách chuyến đi của mình bằng lúc bận bịu chuẩn bị cho chuyến đi ấy. Sau đó, thông thường sẽ chỉ còn lại những hành động phá vỡ sự sở hữu này. Đó chính là sự tầm thường hoàn hảo mang tên những chuyến du hành.
Cuối cùng thì quan niệm cá nhân về nụ hôn của tôi đã ấn định một đôi môi. Điều đó chẳng phải xuất phát từ động cơ muốn bày tỏ những hoang tưởng một cách đầy đặn hơn nữa hay sao? Cho dù chẳng có nỗi mong cầu nào, thế mà một cách điên dại, tôi cứ cố gắng tin rằng đó chính là mong muốn của mình. Việc này tôi đã từng nhắc đến trước đây. Tôi nhầm lẫn thứ mong cầu trái lẽ thường, thứ mong cầu phải thật sự tin rằng cho dù thế nào đó cũng là những gì mình mong muốn thành mong muốn thật sự của mình. Tôi nhầm lẫn những mong muốn mãnh liệt bất khả thi khi tôi không muốn là chính tôi nữa mà mong muốn đang sôi sục ở nơi nào đó trong trái tim của bất cứ ai, ham muốn tính dục tồn tại ở trong con người bất cứ người nào sống trên thế giới này.
Thời gian đó, tôi thường qua lại với một người bạn mới dù chẳng hề hợp nhau. Đó là bạn cùng học tên Nukada, một anh chàng phù phiếm, hay thắc mắc về tiếng Đức sơ cấp, có lẽ chọn tôi làm bạn vì cho rằng tôi là một đối tượng nhã nhặn, dễ điều khiển. Trong mọi việc, tôi luôn là kẻ đầy hứng thú chỉ khi mới bắt đầu, bởi vậy đối với mớ tiếng Đức sơ đẳng ấy, tôi được cho là học giỏi. Tôi được gắn cho cái mác học sinh ưu tú (cảm giác gần giống với biệt danh “tên thầy tu” chỉ những nam sinh viên ít nói và có vẻ chăm chỉ) nhưng thật tâm lại căm ghét biệt danh này vô cùng (tuy nhiên, ngoài cái mác này ra thì cũng không tìm đâu ra được một vỏ bọc bảo hộ an toàn cho tôi hơn thế). Có lẽ nào bằng trực cảm của mình, Nukuda đã nhận ra được việc tôi có vẻ thích “những điều tệ hại”. Bộ dạng nhu nhược của tôi thu hút cậu ta. Tại sao ư, Nukada là một kẻ bị những tên nhát gái căm ghét, đa phần là vì ghen tị. Từ miệng cậu ta, tin tức về thế giới của bọn con gái bằng cách nào đó trở nên chấn động cứ như thể thông tin từ thế giới bên kia truyền đến khi tiến hành thuật gọi hồn. Trong lần gọi hồn đầu tiên của tôi từ thế giới của bọn con gái có sự hiện diện của Omi. Nhưng thời điểm đó tôi vẫn còn là chính tôi nên nếu bắt gặp cậu ta khi gọi hồn liền liệt kê sự đặc biệt chỉ có ở Omi, điểm khác hẳn với những đứa con gái, là một trong những vẻ đẹp của cậu ta và bằng lòng với kiểu giải thích đó. Nhưng vai trò gọi hồn của Nukada đã đóng khung một cách vô cùng tự nhiên lòng hiếu kỳ của tôi.
Cái gọi là “một đôi môi” là khi tôi đến chơi nhà cậu ta đã bắt gặp đôi môi của chị gái cậu ta.
Cô gái xinh đẹp hai mươi tư tuổi ấy đối xử với tôi thoải mái như với một đứa trẻ con. Nhìn lũ đàn ông vây quanh cô, tôi hiểu rằng bản thân mình chẳng có điểm đặc biệt nào thu hút phụ nữ. Việc này buộc tôi phải nhận ra rằng mình không bao giờ trở thành Omi được mà ngược lại, nỗi mong mỏi muốn được trở thành Omi chính là tình yêu tôi dành cho cậu ta.
Tuy nhiên, tôi tin rằng mình đã yêu chị của Nukuda. Để cố làm ra vẻ một người bạn ngây thơ của cậu em trai đang là học sinh, tôi lảng vảng quanh nhà cô hoặc kiên trì chờ đợi ở tiệm sách gần nhà cô để có cơ hội níu bước chân cô lại khi cô đi ngang qua, ôm chiếc gối trên sofa rồi tưởng tượng ra đang ôm cô, vẽ biết bao nhiêu bức tranh về đôi môi cô, tự vấn bản thân bằng bộ dạng tuyệt vọng. Đây là cái gì vậy? Tất cả những nỗ lực giả tạo này gây ra một cảm giác mệt mỏi giống như một sự tê liệt bất thường nào đó. Một phần cảm giác thật sự của tôi luôn cẩn thận để ý, đề phòng sự mất tự nhiên khi luôn tự nhủ rằng mình yêu cô bằng những rã rời tà độc. Sự khổ ải tinh thần ấy có lẽ là một thứ độc dược khủng khiếp. Tranh thủ lúc tôi đang nỗ lực vun đắp những cảm xúc giả tạo như thế thì sự giả dối trắng trợn giống như những cơn run rẩy lẻn vào tấn công tôi, để chạy trốn khỏi sự trắng trợn ấy, tôi lại tiến vào một mộng tưởng giả dối khác. Rồi đột nhiên tôi bắt gặp những hình ảnh kỳ quặc, tôi trở lại làm chính tôi, trở nên đầy sức sống. Hơn cả điều đó, ngọn lửa đột nhiên bùng cháy ấy được trừu tượng hóa, ghi dấu ấn sâu sắc trong tim tôi sau đó được chú thích xuyên tạc đi cứ như thể đấy là dấu ấn tình yêu nồng cháy dành cho cô. Và một lần nữa, tôi lại bắt chính tôi ngậm miệng lại.
Nếu có người chỉ trích rằng, những câu chuyện tự thuật của tôi cho đến thời điểm này mang quá nhiều tính trừu tượng và tính khái niệm thì tôi chỉ có thể trả lời rằng, tôi chẳng quan tâm đến những miêu tả dài dòng về dấu hiệu thời kỳ dậy thì của những đứa con trai khác, vốn là việc mà kẻ ngoài cuộc như tôi hoàn toàn chẳng thể lý giải nổi. Nếu bỏ qua phần cảm giác xấu hổ kia thì thời kỳ này của tôi, cho đến tận cùng cảm xúc cũng giống hệt như những đứa con trai bình thường. Có thể mọi người cho rằng, hình ảnh của tôi trước hai mươi tuổi là một nam sinh có thành tích tốt, lúc nào cũng kè kè bên mình bao nhiêu là sách, không tự tin rằng mình có tướng mạo khiến phái nữ phải say mê, do quá thèm thuồng việc tự giác ngộ, tính khí trở nên khép kín, bởi vậy có thể đỏ mặt ngay lập tức vì bất cứ việc gì, tò mò cũng là sự tò mò thông thường, hy vọng về cuộc đời cũng là những hy vọng thông thường. Và có thể mọi người thắc mắc rằng nam sinh ấy đã mơ tưởng đến phụ nữ theo kiểu nào, lo lắng phiền muộn theo kiểu nào, đau đớn trống trải theo kiểu nào. Thế nhưng sự thật thì lại hoàn toàn không giống những tưởng tượng thiếu hấp dẫn và đơn giản như thế. Đương nhiên là tôi đã lược bỏ đi những miêu tả chán ngắt kiểu rập khuôn để ăn khớp với những phỏng đoán, tưởng tượng của người khác về mình. Thời kỳ này của tôi, bề ngoài giống hệt thời kỳ cực kỳ đơn điệu của một học sinh hay ngượng ngùng, thực tế thì bản thân tôi đã thề trung thành tuyệt đối với vai diễn trong vở kịch này rồi.
Trong thời kỳ này, tôi dần dần hướng sự chú ý dành cho những thanh niên lớn tuổi hơn mình đến những cậu bé ít tuổi hơn. Đương nhiên những cậu bé này cũng ở độ tuổi tương tự Omi ngày trước. Sự thay đổi kiểu cách yêu đương này chẳng liên quan gì đến bản chất của ái tình. Cách thức bị thu hút thì vẫn y hệt như vậy nhưng đã được gia tăng thêm phần trang nhã cho thứ tình yêu hoang dại của tôi. Một thứ giống như tình yêu của người bảo hộ, một thứ tương tự tình yêu của một người đàn ông với một cậu bé, là điềm báo cho sự trưởng thành một cách tự nhiên của tôi.
Hirschfeld đã phân loại những người có xu hướng tính dục lệch lạc, loại chỉ bị hấp dẫn bởi những người đồng tính trưởng thành gọi là androphils , loại yêu thích vị thành niên và các cậu bé thì gọi là ephebophile . Tôi sẽ tiếp tục giải thích loại ephebophile này. Ephebe là từ chỉ những thanh niên từ độ tuổi mười tám đến hai mươi, chính là tuổi tráng đinh thời Hy Lạp cổ, nguyên nghĩa của từ này là tên người con gái Hebe của Zeus và Hera, người sau này sẽ trở thành vợ của vị thần bất tử Hercules. Nữ thần Hebe là người giữ cốc cho các thần trên đỉnh Olympus, là nữ thần của tuổi trẻ vĩnh cửu.
Một cậu bé đáng yêu mười tám tuổi mới nhập học vào trường cao trung của tôi, cậu bé có đôi lông mày dịu dàng, bờ môi mềm mại và nước da trắng. Tôi biết tên cậu ta là Yakumo. Cảm xúc của tôi hân hoan tiếp nhận nét mặt cậu ta.
Nhân đây nói thêm, trong lúc cậu ta chẳng biết gì, tôi đã ăn trộm một thứ tặng vật đầy khoái lạc từ cậu ta. Mỗi tuần một lần, lớp trưởng các lớp khóa trên sẽ cùng thay phiên nhau hô hiệu lệnh buổi sáng, giờ thể dục buổi sáng và giờ tập luyện buổi chiều cũng diễn ra tương tự như vậy (Trong các trường cao trung thực sự có một thứ gọi là “giờ tập luyện”, khoảng ba mươi phút đầu sẽ tập các động tác thể dục kiểu hải quân, sau đó dùng cuốc đào hố phòng không hoặc thu dọn cỏ dại), nên cứ bốn tuần một lần lại đến lượt tôi phải hô hiệu lệnh. Mùa hè đến, vào giờ thể dục buổi sáng và giờ huấn luyện hải quân buổi chiều, những ngôi trường ồn ào và đầy nghi lễ kiểu này rất thịnh hành vào thời đó với một lũ học sinh cởi trần, tập thể dục theo hiệu lệnh. Lớp trưởng đứng trên bục cao hô hiệu lệnh xong thì lại hô thêm câu: “Cởi áo”. Sau khi tất cả mọi người đều cởi áo, lớp trưởng liền từ trên bục cao bước xuống, hướng về vị trí của mình khi nãy mà bây giờ đã được thầy giáo thể dục đứng thế vào, hô to: “Cảm ơn”, rồi chạy đến tận cuối hàng cuối cùng của lớp mình. Tại chỗ này lớp trưởng sẽ tự mình cởi áo rồi thực hiện các động tác thể dục, tập thể dục xong thì giáo viên sẽ hô khẩu hiệu nên vai trò của lớp trưởng kết thúc. Việc hô khẩu hiệu khiến tôi sợ đến mức ớn lạnh nhưng vai trò vụng về khi tiến hành nghi thức quân đội như trên thỉnh thoảng lại là việc trúng với ý muốn của tôi. Bởi vậy, tôi thường chờ đợi phiên của mình cứ bốn tuần lại đến một lần. Tại sao ư? Nhờ có những lúc như thế mà tôi có thể nhìn trực tiếp hình dáng của Yakumo, hơn thế lại còn có thể ngắm cậu ta mà chẳng sợ cậu ta nhìn thấy phần thân trên ốm o của tôi.
Yakumo đứng ở hàng thứ hai tính từ cái bục xuống. Đôi má giống như má chàng Hyacinth rất dễ đỏ lựng lên. Chạy đến nơi tập hợp nghe hiệu lệnh buổi sáng, ngay trước khi xếp vào hàng, cậu ta thở gấp. Ngắm nhìn đôi má cậu ta lúc đó khiến tôi cảm thấy thật dễ chịu. Cậu ta thường vừa thở hổn hển vừa dùng bàn tay thô kệch cởi khuy áo khoác, sau đó giật mạnh tà áo sơ mi trắng đang đút trong cạp quần ra ngoài. Lúc ấy tôi đứng trên bục cao, cho dù không cố gắng nhìn thì phần thân trên trắng trẻo, trơn láng của cậu ta cứ thế tự nhiên hiện ra trước mắt tôi. Bởi thế mà khi nghe một người bạn tình cờ nói với tôi rằng: “Lúc cậu hô hiệu lệnh, mắt lúc nào cũng nhìn xuống dưới. Chẳng lẽ cậu yếu tim?”, sống lưng tôi chợt lạnh toát. Nhưng lúc ấy, tôi lại không có cơ hội đến được thật gần cơ thể cởi trần ửng đỏ màu hoa hồng của Yakumo.
Trong một tuần của mùa hè, toàn bộ học sinh hệ cao trung phải đến học viện hải quân của thành phố M để giao lưu học hỏi. Ngày hôm đó, trong giờ bơi lội, mọi người đều nhảy vào hồ bơi. Tôi thì chẳng biết bơi nên thờ ơ phân trần rằng mình đau bụng. Thế mà chỉ huy lại đưa ra chủ ý tắm nắng với lý do tắm nắng là thuốc trị bách bệnh, ngay cả người có bệnh như tôi cũng phải cởi áo ra. Nhìn ra mới thấy, một trong số những người đang ốm là Yakumo. Hai cánh tay cậu ta đan vào nhau căng cứng đến mức trắng toát, cảm giác cánh tay bị mặt trời hun cháy đang dầm mình vào cơn gió hiu hiu thổi qua, chiếc răng cửa rất trắng cắn chặt như muốn đùa cợt bờ môi dưới. Những người tự khai mình ốm đứng túm tụm dưới bóng cây quanh hồ bơi nên tôi có thể đến gần Yakumo mà chẳng gặp chút khó khăn nào. Ước lượng cái eo mềm dẻo của cậu ta, nhìn ngắm cái bụng đang thở trong im lặng của cậu ta, tôi chợt nhớ đến một câu thơ của Whitman như sau:
... Những người trẻ tuổi đang nằm ngửa,
cái bụng trắng nở ra trong ánh mặt trời.
Nhưng lần ấy tôi lại chẳng nói năng được dù chỉ một lời. Tôi xấu hổ vì bộ ngực hom hem và cánh tay xanh xao gầy nhẳng của mình.
Năm Chiêu Hòa thứ 19, tức là một năm trước năm kết thúc chiến tranh, tháng Chín, tôi tốt nghiệp trường học mà tôi đã học ở đây từ những ngày thơ bé và vào Đại học. Bằng sự cưỡng chế của người cha không cho phép ai trả lời có hoặc không với mình, tôi buộc phải chọn chuyên ngành luật. Nhưng tôi tin rằng chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ bị bắt lính, chết trận, cả nhà tôi sẽ bị không kích, chết sạch không còn một ai. Bởi niềm tin này mà chuyện bị ép vào ngành luật cũng chẳng khiến tôi quá khổ sở.
Một đàn anh sắp ra trận đúng lúc tôi nhập học đã cho tôi mượn bộ đồng phục, vào thời điểm đó, việc này cũng là chuyện bình thường. Tôi dự định sẽ trả lại bộ đồng phục cho gia đình anh ta trước khi mình ra trận nên cứ vậy mặc nó đến trường. Sợ những cuộc không kích gấp đôi người khác, thế mà đồng thời tôi cũng chờ đợi cái chết trong một thời gian dài bằng một kỳ vọng ngọt ngào. Như tôi vẫn nói, tương lai với tôi hoàn toàn là một gánh nặng. Cuộc đời này từ khi bắt đầu đã vặn chặt tôi vào quan niệm về nghĩa vụ. Dù hiểu việc hoàn thành nghĩa vụ này đối với tôi là bất khả thi nhưng cuộc đời lại cứ lấy lý do rằng tôi không hoàn thành nghĩa vụ ấy mà dày vò, dằn vặt tôi. Nếu tôi kết thúc cuộc đời này một cách lãng xẹt bằng cái chết thì chẳng phải là việc nhẹ lòng hay sao? Bằng sự nhạy cảm của mình, tôi cực kỳ đồng cảm với lý thuyết về cái chết thường được rao giảng trong chiến tranh. Vạn nhất tôi chết trong danh dự cho cuộc chiến này (điều chẳng phù hợp với tôi chút nào) nhưng thực tế là khép lại cuộc đời của xác thịt này, bên dưới nấm mồ, hạt giống nụ cười của tôi không bao giờ chết. Ấy vậy mà tôi của lúc đó, cứ thấy tiếng còi báo động vang lên là chạy trốn đến hầm trú ẩn nhanh hơn bất cứ ai.
Tôi nghe thấy tiếng đàn piano vô cùng tệ hại.
Tiếng piano vang ra từ nhà của người bạn nhập ngũ với tư cách học viên trường cán bộ đặc biệt. Cậu bạn tên Kusano ấy là người bạn mà tôi trân trọng, người duy nhất tôi có thể nói chuyện về các vấn đề tình cảm hồi còn học cao trung, cho dù chỉ một chút ít thôi. Tôi là một nam giới không dám đèo bòng thêm một thứ gọi là tình bạn nhưng những suy nghĩ tàn khốc bị tôi áp đặt vào chính mình khiến những sự việc mà tôi sẽ kể ra sau đây có thể làm tổn thương tình bạn duy nhất này.
“Tiếng piano này nghe kỳ nhỉ? Có vài chỗ nghe như tiếng cãi nhau vậy.”
“Em gái tớ đấy. Giáo viên piano vừa ra về là nó liền luyện lại bài học.”
Cuộc đối thoại kết thúc, chúng tôi lại tiếp tục dỏng tai lên nghe. Ngày nhập ngũ của Kusano đã cận kề nên e rằng thứ vang đến tai của cậu ta không đơn giản là tiếng piano từ phòng bên cạnh mà là vẻ đẹp của những điều thường làm cậu ta mất kiên nhẫn, những thứ dở dang “thường nhật” mà cậu ta sắp bị tách khỏi. Trong âm sắc của tiếng piano đó, nghe ra sự thân thuộc giống như miếng bánh chưa làm xong, vừa làm vừa nhìn vào sách ghi chép công thức. Tôi không nhịn được bèn hỏi.
“Em gái cậu năm nay bao nhiêu tuổi rồi?”
“Mười tám, là em gái kế ngay sau tớ,” Kusano trả lời.
Nghe ra mới thấy đâu đó lẫn trong tiếng đàn những âm điệu thơ ngây còn sót lại trên đầu ngón tay, những mộng mơ của tuổi mười tám. Hơn thế, thiếu nữ ấy lại không biết rằng đó là nét duyên dáng của riêng mình. Tôi mong bản piano dở tệ ấy cứ vậy mà kéo dài mãi mãi. Mong muốn của tôi được hiện thực hóa. Tiếng piano ấy, từ ngày hôm đó cho đến tận bây giờ, tức là đã năm năm sau, vẫn còn vang vọng trong tim tôi. Đã bao nhiêu lần tôi gần như tin rằng đó là ảo giác. Lý trí của tôi chế nhạo ảo giác ấy. Sự yếu đuối của tôi cười vào sự tự lừa đảo của tôi. Phớt lờ những việc ấy, tiếng piano chi phối tôi, nếu lược đi những ý nghĩa cầu kỳ hoa mỹ của từ ngữ gọi là Số phận thì thứ âm thanh này đối với tôi chắc chắn là thứ thuộc về Số phận.
Trước thời điểm đó một chút, tôi cũng đã ghi nhớ từ “Số phận”, tiếp nhận nó bằng sự cảm động sâu sắc dị thường. Sau lễ tốt nghiệp cao trung, bên trong chiếc xe ô tô tiến vào nội điện Hoàng cung để cảm ơn Thiên Hoàng bệ hạ cùng thầy Hiệu trưởng lão tướng hải quân, ông già buồn rầu khóe mắt đầy gỉ này khẳng định rằng với sức khỏe của tôi sẽ không thể nào mà chịu nổi cuộc sống của một quân nhân, chỉ trích quyết định muốn được gọi nhập ngũ như một quân nhân thông thường mà không phải là học viên trường cán bộ đặc biệt của tôi.
“Nhưng em đã quyết tâm rồi.”
“Em nói như vậy vì em chẳng hiểu gì cả. Nhưng thời hạn để nộp nguyện vọng vào trường cán bộ đặc biệt đã qua mất rồi, dù sao thì cũng đã muộn. Đây là số phận của em.”
Ông ta phát âm từ “Số phận” bằng tiếng Anh theo kiểu phát âm thời Minh Trị.
“Rồi thì sao ạ?” Tôi hỏi lại ông ta như vậy.
“Số phận đấy. Đấy là số phận của em.”
Sự vô tâm biểu hiện ra ngoài của tính cách ngại ngùng chỉ thấy ở người già cảnh báo tôi rằng: đừng bao giờ nghĩ đó là sự quan tâm của một người thầy dành cho học trò. Cũng bằng sự vô tâm ấy, ông ta lặp đi lặp lại từng lời nói một cách đơn điệu.
Cho đến lúc đó, chắc chắn tôi đã từng nhìn thấy thiếu nữ chơi piano trong nhà Kusano. Nhưng hoàn toàn đối lập với nhà Nukada, ở một gia đình theo kiểu cách của chủ nghĩa đạo đức như nhà Kusano thì ba người em gái cứ nhìn thấy tôi sẽ ngay lập tức tránh đi chỉ để lại cho tôi một nụ cười e lệ. Thời điểm nhập ngũ của Kusano đã cận kề nên tôi và cậu ta thường xuyên đến nhà nhau chơi như để níu kéo chút ít thời gian còn lại trước khi ly biệt. Tiếng piano làm tôi trở nên lóng ngóng vụng về khi đứng trước em gái Kusano. Từ khi lắng tai nghe tiếng piano ấy, tôi như nghe hiểu được những bí mật trong lòng cô, bởi thế khó có thể đứng đối diện với cô mà nói chuyện thoải mái được. Thỉnh thoảng cô bưng trà đến mời tôi uống, tôi lại nhìn thấy đôi chân cô nhanh nhẹn di chuyển nhẹ nhàng trước mắt mình. Có lẽ không quen nhìn thấy những đôi chân phụ nữ trong một cái quần Tây hay một chiếc quần kiểu Nhật mà gần đây đang thịnh hành nên vẻ đẹp của đôi chân cô khiến tôi cảm động vô cùng.
Nếu cứ viết tiếp theo kiểu như thế thì việc tôi nghĩ đến nhục cảm từ đôi chân ấy là việc không thể tránh khỏi. Nhưng không phải như vậy. Như tôi vẫn nói, định kiến về nhục cảm dị tính trong tôi hoàn toàn khuyết thiếu. Chứng cứ thuyết phục nhất chính là tôi không hề biết đến mong muốn được nhìn thấy cơ thể khỏa thân của phụ nữ. Tuy nhiên tôi đã suy nghĩ một cách cẩn trọng về tình yêu dành cho phái nữ. Sự mệt mỏi đáng ghét thường lan ra đến tận sâu trong cảm giác gây cản trở cho việc đuổi theo suy nghĩ cẩn trọng ấy. Khi đó tôi phát hiện ra được niềm hạnh phúc trong suy nghĩ của một con người đã chiến thắng lý trí của bản thân, đem cảm xúc không thể duy trì lâu dài và lạnh lẽo của bản thân bắt chước cảm xúc giống hệt như thế ở một người đàn ông đã mệt mỏi vì phụ nữ cho đến khi đạt được sự thỏa mãn giả vờ giả vịt. Sự thay đổi cảm xúc này cố định bên trong tôi giống như chiếc máy của cửa hàng bán bánh kẹo rẻ tiền, cứ cho đồng xu 10 yên vào thì kẹo caramen sẽ rơi ra.
Đại khái tôi đã nghĩ rằng dù không mang trong lòng bất cứ khao khát nào nhưng vẫn có thể yêu phụ nữ. E là, từ thuở bắt đầu lịch sử của loài người đến nay, đây là kế hoạch liều lĩnh nhất. Tôi không hiểu điều đó (cách nói phóng đại quá mức này đã cầu xin sự cho phép từ đặc trưng tính cách của riêng tôi) nhưng cứ thế xây dựng kế hoạch trở thành Copernicus của những tín điều tình ái. Vì thế đương nhiên, một cách vô thức tôi tin vào quan niệm tình yêu của Platon. Trước đây tôi đã từng nói, nhìn qua thì có vẻ mâu thuẫn, nhưng tôi tin vào chuyện yêu đương một cách đơn thuần, chính trực đúng như những gì tôi đã biểu hiện ra ngoài. Không chừng, điều tôi tin vào chẳng phải là chuyện yêu đương mà chính là sự thuần khiết ấy chăng? Phải chăng tôi đã thề trung thành với chính sự thuần khiết ấy? Đó là những vấn đề của tương lai sau này.
Nguyên nhân của việc đôi khi tôi có vẻ không tin vào quan niệm tình yêu trong sáng kiểu Platon chính là suy nghĩ dễ hướng về những chủ đề liên quan đến xác thịt, một thứ khuynh hướng xác thịt khuyết thiếu ham muốn dục tình. Sự kiềm chế với những mệt mỏi giả tạo này đem đến cho tôi cảm giác thỏa mãn như một con bệnh mắc thứ bệnh tật gọi là thích giả vờ trưởng thành. Có thể nói là bởi vì tôi bất an.
Năm cuối cùng của cuộc chiến, tôi hai mươi mốt tuổi. Dịp Tết, sinh viên trong trường đại học của tôi nhanh chóng bị điều động đến làm việc trong công xưởng sản xuất máy bay ở thành phố M lân cận. 80% sinh viên trở thành công nhân, 20% còn lại, lũ sinh viên yếu ớt làm các công việc liên quan đến giấy tờ. Trong cuộc điều tra trưng binh năm trước đó, tôi được thông báo đỗ chứng chỉ hạng B nên có phần lo lắng về việc lệnh nhập ngũ sẽ đến trong nay mai.
Ở vùng đất ảm đạm, cô liêu, vần vũ bụi cát vàng này, cái công xưởng khổng lồ đến mức chỉ cần đi từ đầu này đến đầu kia cũng tốn ba mươi phút, cái công xưởng ấy điều khiển vài nghìn công nhân vận hành. Tôi cũng là một trong số vài nghìn người ấy, mang số hiệu 4409, nhân viên tạm thời mang mã số 953. Đại công xưởng này được xác định dựa trên chi phí sản xuất bí mật không cần suy nghĩ đến chuyện thu hồi vốn rồi cống hiến hết cho một sự vô nghĩa khổng lồ. Việc sáng nào cũng phải ê a lời tuyên thệ thần bí cũng có lý do. Từ trước đến nay, tôi chưa từng nhìn thấy một cái công xưởng nào như thế. Kỹ thuật của khoa học hiện đại, cung cách kinh doanh hiện đại, tư duy hợp lý, tỉ mỉ của nhiều bộ óc siêu việt, dù chỉ một thứ trong số đó được vận dụng thì cũng là để cung phụng cho cái chết. Đại công xưởng này sản xuất máy bay tiêm kích hạng nhẹ chuyên dụng cho quân cảm tử, một nơi giống như một giáo phái ám muội đang rống lên vì giận dữ, khóc lóc om sòm, gầm rú như động vật, gào thét như gió bão. Nếu không có sự khoa trương mang tính tôn giáo nào đó thì cũng chẳng thể nào tồn tại một cơ cấu khổng lồ như thế. Thậm chí, đến những tay giám đốc tham ô cũng mang đầy tính tôn giáo.
Thỉnh thoảng, tiếng chuông báo động có máy bay không kích vang lên như báo trước thời khắc thực hiện nghi thức Thánh Lễ Đen của thứ tôn giáo xấu xa ấy. Không khí trong phòng sự vụ đột nhiên trở nên gấp gáp, một giọng nói lồ lộ âm điệu nhà quê: “Thông tin thế nào rồi?” Chẳng có chiếc radio nào trong căn phòng này. Đứa con gái làm việc trong phòng chỉ huy đến cung cấp thông tin: “Địch có vài biên đội.” Trong lúc đó, giọng nói khó nghe trong loa phóng thanh ra lệnh trú nạn với học sinh nữ và học sinh tiểu học. Trưởng đội cứu nạn phát cho mỗi người một tấm giấy màu đỏ in dòng chữ: “Cầm máu... giờ... phút”, nhìn như thẻ giữ hành lý. Khi bị thương thì ghi thời gian cầm máu lên tấm thẻ này rồi đeo lòng thòng trước ngực. Sau khi tiếng chuông báo động vang lên, chỉ mười phút sau loa phóng thanh lại thông báo: tất cả mọi người trú nạn.
Những người trong phòng sự vụ cho tài liệu quan trọng vào trong một cái hộp rồi nhanh nhanh chóng chóng bỏ vào két sắt ngầm dưới đất. Sau khi cất xong tài liệu, họ cũng chạy về phía hầm trú ẩn, gia nhập vào đoàn người đội mũ sắt và mũ trùm đầu che mặt đề phòng bị máy bay phát hiện. Đoàn người ấy nhằm thẳng cửa chính tràn qua. Bên ngoài là một vùng đồng bằng trần trụi, vàng vọt và hoang vắng. Cách đó bảy, tám trăm mét là một rừng tùng nằm trên ngọn đồi thoai thoải, ở đó đã đào sẵn vô số chiến hào. Hướng về phía đó, một bầy đàn im lặng, cáu kỉnh, mù lòa rẽ hướng trên hai con đường trong đám bụi cát mù mịt, dù thế nào, bầy đàn ấy không phải là “cái chết”, đúng vậy cho dù đích đến là một cái lỗ trên nền đất đỏ dễ bị phá hủy đi nữa, họ dứt khoát cũng sẽ chạy về hướng không có cái chết hiện hữu.
Hiếm khi tôi về nhà vào ngày nghỉ, hôm ấy, lúc 11 giờ đêm, tôi nhận được lệnh nhập ngũ. Bức lệnh trạng viết rằng, ngày 15 tháng Hai tôi phải lên đường.
Kiểu người có thể trạng yếu đuối như tôi ở thành phố chẳng phải là hiếm. Bố tôi cho rằng, nếu khám sức khỏe theo nguyên quán ở quê, một kẻ yếu đuối sẽ trở thành một kẻ chẳng cần thiết trong đội ngũ đa số là những thanh niên khỏe mạnh khác, rồi sẽ có thể không được thông qua. Bởi vậy, tôi khám cùng những người có xuất thân ở tỉnh H, vùng Kinki. Những thanh niên nông thôn dễ dàng nâng bao thóc đến tận chục lần, cũng bao thóc ấy, tôi chẳng thể nào nâng lên đến ngực khiến người kiểm tra bật cười, thế mà rốt cuộc tôi vẫn phải tiếp nhận lệnh điều động bằng chứng chỉ loại B, nhập vào đội quân thô bạo của những tay nhà quê ấy. Mẹ tôi khóc lóc, bố tôi gần như mất hết ý chí. Bức lệnh trạng đến quả thực là không theo ý muốn của tôi, nhưng ngược lại tôi luôn chờ đợi tình trạng tuyệt vời của cái chết nên có chút cảm thấy dễ chịu. Tuy vậy, lúc đang ở trên tàu hỏa thì bệnh cảm bị lây trong công xưởng phát ra dữ dội, tôi liền ghé vào nhà một người quen khá thân tình của ông nội tôi, người này là người quen cùng quê của ông, nơi miền quê mà ông tôi chẳng còn dính líu gì kể cả một mét vuông đất. Tại đây, cơn sốt cao hạ gục tôi. Người y tá nhã nhặn của gia đình ấy cho tôi uống rất nhiều thuốc hạ sốt, cuối cùng cũng thấy hiệu quả. Sau đó, tôi được người ta vui vẻ tiễn vào đến tận cổng doanh trại.
Cơn sốt bị thuốc đánh bại lại ngóc đầu dậy. Trong lúc kiểm tra sức khỏe trước khi nhập ngũ, bị bắt khỏa thân đi vòng quanh như một con thú, tôi hắt hơi liên tục. Tay quân y tập sự nhầm lẫn tiếng khọt khẹt trong phế quản của tôi thành âm thanh bất thường, lỗi tay nghề này của gã quân y được tin tưởng hơn nữa bởi