Chương 127 - Hỏi Đạo
Quận An Định nằm về phía tây bắc núi Kỳ Sơn. Qua khỏi Kỳ Sơn, dễ dàng cảm nhận sự thưa thớt của cư dân, núi non ngày càng nhiều, đưa mắt nhìn xa, hầu như mọi điểm cuối tầm nhìn đều có núi chắn ngang.
Núi nhiều thì đất canh tác cũng ít đi, cảnh vật chẳng thể nào giống Quan Trung với dân cư đông đúc. Dù hiện tại Quan Trung dân chúng không sống sung túc, nhưng dải đất phì nhiêu kéo dài tám trăm dặm xứ Tần Xuyên vẫn đủ nuôi dưỡng biết bao người. Dù dân Hà Lạc lưu tán về đây đông đúc, nhưng chỉ cần quản lý tốt, vùng đất màu mỡ Quan Trung vẫn có thể dung nạp và khiến họ yên ổn lập nghiệp.
Mâu thuẫn giữa Đổng Trác và các thế gia cũng bắt nguồn từ đây. Đổng Trác muốn có thêm nhân khẩu, nhưng lại không có chỗ để bố trí. Tám trăm dặm đất xứ Tần hầu hết là điền sản của thế gia Quan Trung, nên muốn an cư lạc nghiệp cho dân lưu tán chỉ có cách để họ làm tá điền cho các thế gia, điều này hiển nhiên trái với lợi ích của Đổng Trác.
Ngoài xứ Tần, Tây Lương dân cư vốn đã thưa thớt, chẳng thể so bì với vùng Trường An, nhưng trên những dải núi xen kẽ, vẫn có thể thấy những ruộng bậc thang nằm lác đác trong các khe núi, thậm chí có nơi còn mở được ruộng trên núi, miễn là ngọn núi đủ lớn và có nguồn nước dồi dào.
Làm ruộng trên núi như vậy cũng thường thấy ở vùng Tịnh Châu, nhưng so ra không dễ dàng như ở đồng bằng Quan Trung hay Hà Lạc. Vì vậy, Tây Lương vẫn luôn bị xem là vùng đất cằn cỗi. Chỉ có thành Cửu Nguyên ở phía bắc, nơi Lữ Bố sinh ra, là vùng đất dễ sống hơn, nhờ nằm trên đồng bằng Hà Tảo rộng lớn, tuy khí hậu lạnh giá nhưng đất đai màu mỡ, lại có sông lớn bao quanh, không những không gây tai họa mà còn làm cho hai bờ đất đai thêm trù phú.
Các thành trì của nhà Hán thường được xây ở những vùng đất bằng phẳng, có nhiều ruộng canh tác bao quanh. Trong khi đó, người Khương chỉ có thể sống ở những vùng núi hẻo lánh, đến lúc cùng cực không sống nổi thì lại tấn công thành trì của người Hán, thường là đột kích bất ngờ, không có lý do lớn lao nào ngoài việc cần kiếm ăn.
Những năm mùa màng tốt tươi, người Khương và người Hán còn giao hảo với nhau, dân thường có khi chủ động cưới gái Khương hoặc gả con gái cho người Khương để tìm sự bảo hộ. Quan hệ giữa hai bên nhờ đó trở nên phức tạp hơn nhiều so với giữa người Hồ và người Hán.
“Quan phủ bắt buộc bộ tộc chúng ta lao dịch chẳng ít, nói là thuế má bằng nhau, nhưng chúng ta còn có đủ thứ thuế nào là thuế trú ngụ, thuế canh tác, thuế trị an…” Giữa một vùng núi non không tên tuổi, Lữ Bố và Điển Vi ngồi nghe một người Khương trung niên than phiền về sự áp bức của quan phủ. Người Khương vốn chịu rất nhiều lao dịch, nhưng nếu giúp triều đình đánh trận có thể được miễn bớt một phần, đó cũng là lý do triều đình dễ dàng trưng mộ người Khương. Đa phần người Khương sống bằng nghề nông, nếu được miễn lao dịch, đời sống của họ sẽ tốt lên nhiều.
Lữ Bố và Điển Vi nhìn nhau, dân Hán đã cực kỳ nghèo khổ, nhưng trong mắt người Khương, họ lại như sống trên thiên đường. Cảm giác hạnh phúc thường sinh ra từ sự so sánh, thấy người khác còn khổ hơn mình thì bản thân lại thấy hạnh phúc. Ngược lại, nếu người Khương sống sung túc hơn người Hán, cho dù cuộc sống của dân Hán chẳng thay đổi gì, họ cũng sẽ cảm thấy bất công và sinh lòng oán hận.
Vậy nên, ở đây có những sự việc kỳ lạ trong mắt người ngoài. Người Hán và người Khương kết hôn hầu hết là tự nguyện, gái Khương sẵn lòng lấy chồng Hán, nhờ đó quan phủ không dám quá áp bức dân chúng. Ngược lại, người Khương lấy vợ Hán cũng được miễn một số lao dịch. Hôn nhân Hán – Khương như vậy, đôi bên cùng có lợi. Đến nay, tuy gọi là người Khương, nhưng xét về huyết thống, dân ở An Định cũng có thể xem là người Hán, mà người Hán cũng có thể xem là Khương, bởi sự kết hôn giữa đôi bên đã có từ hai trăm năm trước.
“Nghe nói sắp đánh nhau, nhưng ở đây hình như chẳng có chuẩn bị gì.” Lữ Bố nhận lấy bầu rượu đục mà người Khương đưa cho, thuận miệng hỏi.
“Sao ngươi lại hỏi vậy?” Người Khương trung niên cảnh giác nhìn Lữ Bố.
“Chúng tôi từ Trường An tới, đi về Kim Thành. Lúc rời Trường An nghe nói triều đình muốn đàn áp loạn quân bên này.” Lữ Bố thản nhiên đáp.
Cuộc nổi loạn của Chung Khương lần này chủ yếu do họ chiếm giữ huyện Bành Dương, nếu chỉ là mấy vụ đánh nhau lẻ tẻ thì cũng chẳng làm triều đình bận tâm.
“Chuyện không liên quan đến các người, đừng hỏi nhiều. Uống xong thì lên đường đi.” Người Khương trung niên nghe vậy bèn im bặt.
“Sao ngươi tự dưng trở mặt vậy hả?” Điển Vi trừng mắt, đứng bật dậy.
“Ngươi muốn làm gì?” Người Khương trung niên bị thể hình cao lớn của Điển Vi dọa sợ, liền đưa tay đặt lên chuôi đao.
“Đi thôi.” Lữ Bố cau mày, đứng dậy vỗ vai Điển Vi, rút từ trong áo ra vài đồng tiền ngũ thù đặt lên chiếc bàn đơn sơ, rồi nhìn người Khương trung niên mà nói: “Chuyện đánh nhau không liên quan đến chúng ta, chỉ là chúng tôi muốn đến Kim Thành mà không muốn gặp rắc rối. Có thể chỉ cho chúng tôi một đường đi không?”
“Đến Kim Thành…” Người Khương trung niên nhìn mấy đồng tiền trên bàn, gần đây tuy trao đổi vật phẩm tiện lợi hơn nhưng đồng ngũ thù vẫn có thể dùng được ở huyện thành. Nghĩ ngợi giây lát, ông ta cầm lấy tiền, nói: “Tránh xa ải Phiên Tu thì chẳng có gì nguy hiểm cả.”
Lữ Bố gật đầu, đứng dậy dẫn Điển Vi rời đi.
“Chủ công, chúng ta thật sự đến Kim Thành?” Điển Vi đi bên cạnh hỏi.
“Đến ải Phiên Tu.” Lữ Bố lắc đầu. Nói đi Kim Thành chỉ là thuận miệng, từ thái độ của người Khương vừa rồi, có thể thấy cuộc bình loạn lần này có gì đó bất ổn.
Chỉ tiếc bên cạnh ông ngoài Cao Thuận và Điển Vi, không có ai giúp được. Cao Thuận cần ở lại quản quân, Điển Vi thì không quen xử lý việc này, nên đành tự mình chạy một chuyến. Sau cuộc bình loạn này, dù thế nào cũng phải tìm cách chiêu mộ Văn Viễn dưới trướng, không thể cứ mỗi lần xuất quân chỉ dựa vào mình Cao Thuận mãi.
Tuy nhiên, cả hai cũng không đi thẳng tới Phiên Tu mà đi qua nhiều bộ lạc người Khương, nhưng cứ nhắc đến chuyện đánh nhau là chẳng hỏi được gì thêm, có bộ lạc còn muốn ra tay, nhưng trước Lữ Bố và Điển Vi, một bộ lạc nhỏ không làm gì được. Qua đó Lữ Bố càng chắc chắn cuộc bình loạn lần này không đơn giản như bề ngoài. Thêm nữa, ải Phiên Tu là nơi tập trung chủ lực của tộc Chung Khương, cũng là trung tâm thế lực của Chung Khương ở An Định. Ải Phiên Tu là một địa thế chiến lược quan trọng, thương nhân qua lại giữa An Định và Lũng Tây đều phải nộp thuế mới được đi qua. Những kẻ như Lữ Bố và Điển Vi thân cô thế cô mà tới đây rất dễ bị bắt giữ.
Còn bắt giữ để làm gì, thì chẳng ai đoán trước được.