Chương 3
Chúng tôi đi xuyên qua nhóm đông người đang nhảy múa. Bên cạnh cái bục mà anh chàng trộn nhạc có những bím tóc Rasta đang lo lắng cho những âm điệu xé tai trôi không dứt, chúng tôi tìm thấy một cửa thoát hiểm.
Cả hai cánh cửa bằng sắt chỉ được khép hờ. Chúng tôi mở chúng ra và bước vào một khoảng hành lang hẹp chỉ được soi sáng lờ mờ.
Phil và tôi nhanh lẹ bước tiếp. Không thấy dấu vết của ba đứa con trai mới lớn đâu. Rõ là chúng đã rời câu lạc bộ rất vội vàng.
— Chuyện vô lý làm sao ấy! - Phil kêu lên khi hai chúng tôi bước đến cuối hàng lang. - Ở đây có cái gì đó không ổn!
Nếu quả đúng là ba thằng bé chỉ muốn giỡn chơi chúng tôi cho vui, tôi sẽ tự tay phát vào mông chúng cho chúng nhớ đời, tôi cay đắng nghĩ thầm.
Cương quyết, chúng tôi mở cửa ra. Lao ra ngoài khoảng sân tối đen.
Chúng tôi đưa mắt tìm ba bộ complê màu trắng. Nhưng không đâu hiện ra một mảnh vải sáng màu nào dù chỉ là duy nhất.
Thay vào đó là năm gã đàn ông đột ngột đứng sừng sững trên một đống xà bần ở giữa sân. Chúng đã chờ sẵn ở đây. Và chúng tôi chỉ nhận ra chúng khi đã gần nhưng quá muộn!
Tất cả quần áo của chúng đều đen như quạ. Chúng đứng như năm bức tượng. Nhưng rồi cả năm bức tượng đồng thời thoắt chuyển qua hành động.
Chúng tôi nghe thấy những tiếng rít của kim loại. Thế rồi chỉ một thoáng sau, lửa phụt ra từ đầu nòng súng, kèm theo tiếng nổ rầm rầm như búa nện!
Nhanh như chớp, cả Phil và tôi thả người lao vọt sang bên. Đạn rít ngang đầu tôi. Tôi lăn người thật nhanh trên nền đá, cho tới khi nấp được vào đằng sau một khoảng tường thấp.
Những vết bầm sau gáy từ phi trường Kennedy mang về bỗng dội cảm giác đau làm đầu tôi giật thình thịch. Tôi nghiến răng lại. Qua khóe mắt, tôi nhìn thấy Phil đã tìm thấy chỗ nấp đằng sau một vài thùng đựng rác. Tôi thở ra để rồi ngay lập tức nhận ra rằng tôi thở ra quá sớm. Bởi Aighbour vẫn đi theo chúng tôi. Và ngược lại với chúng tôi, anh không kịp nhận ra hiểm họa.
Chàng nhân viên của DEA lúc này đang nằm trên nền sân, hơi thở sặc sụa. Rót những giọt sức lực cuối cùng, anh đang tìm cách lết người quay trở lại cửa hậu. Nhưng anh chỉ đi được một chút xíu rồi gục xuống, kiệt lực. Nằm bất động, hơi thở anh trở nên nặng nề.
Bọn đàn ông bên đống xà bần lúc đó vẫn không nguôi xối đạn về phía chúng tôi. Chứng tỏ chúng muốn cương quyết loại trừ chúng tôi, không một lời phân giải.
Đối với Aighbour, tình huống đã gấp lắm rồi. Tôi phải hành động ngay lập tức, nếu muốn anh bạn mới còn có cơ hội thoát ra khỏi bàn tay tử thần…
Trong một phần giây đồng hồ, tôi có cảm giác đang bị đạp giật trở về vài tuần lễ trước đây. Ngày đó những viên đạn cũng réo chíu chít qua tai tôi như bây giờ. Tại miền Toskana. Một nhóm đàn ông vãi đạn ra khỏi khuôn cửa sổ của một ngôi biệt thự tráng lệ về phía các thành viên Đội Đặc Nhiệm Chống Tội Phạm Có Tổ Chức của Italia!
Tôi rũ bỏ hồi ức và lại tập trung toàn bộ sức lực vào sự việc đang diễn ra trên sân. Năm thằng con trai dạng chân đứng bên trên đống xà bần, rải mưa chì xuống khoảng sân trước mặt chúng. Vữa và vôi rơi xuống người tôi.
Phil và tôi hầu như không còn cơ hội để ló ra khỏi chỗ nấp. Nếu thò ra thì chỉ trong một tích tắc thôi, xương thịt chúng tôi sẽ bị xuyên thủng lỗ chỗ, biến thành lưới vớt mỳ Spaghetti.
Tôi rút máy điện đàm ra khỏi túi áo khoác của mình. Steve và Zeery lên tiếng ngay lập tức.
Bằng vài câu ngắn ngủi, tôi tường thuật tình huống với hai bạn đồng nghiệp.
— Có năm thằng con trai trong sân sau. Aighbour trúng đạn rồi. Mình tìm cách quan tâm đến anh ấy! - Tôi gọi vào máy điện đàm.
— Bọn mình sẽ cho gọi xe cứu thương, - tôi nghe tiếng Steve vọng ra từ máy. - Nghiến răng cố giữ, chỉ vài phút là bọn mình tới!
Anh tắt máy.
Thêm một lần nữa ánh mắt của tôi lướt về hướng cửa hậu của câu lạc bộ Timothy. Aighbour vẫn nằm đó bất động. Cách khuôn cửa an toàn chưa đầy hai gang tay. Nhưng rõ ràng anh không đủ sức để lết vào trong.
Tôi không được phép chờ cho tới khi Steve và Zeery tới đây. Tới thời điểm đó có lẽ mọi chuyện đã trở thành quá muộn đối với chàng trai DEA.
Tôi nảy một sáng kiến. Lay lắc, rồi rút ra một viên gạch từ khoảng tường đổ nát trước mặt mình. Thế rồi tôi ngắm vào một trong những khuôn cửa sổ của ngôi nhà đối diện. Đó là một ngôi nhà cũ, không còn người ở nữa. Dồn hết sức, tôi ném mẩu gạch về phía đó.
Tiếng kính vỡ vọt về phía năm gã đàn ông như một hồi chuông báo động. Ba trong số chúng xoay người lại, và ngay lập tức xả đạn về khuôn cửa sổ vừa bị hỏng.
Linh cảm ngay ra ý định của tôi, Phil ló ra khỏi cụm thùng rác và bắn yểm trợ cho tôi. Chính trong tích tắc đó, tôi nhảy vọt lên trên khoảng tường đổ. Chạy về hướng cửa hậu của câu lạc bộ Timothy. Vừa chạy, tôi vừa bắn về phía đám đàn ông đứng bên trên đống xà bần. Không còn thời gian để xét xem có xả đạn trúng đứa nào không. Tôi chạy tiếp.
Rồi tôi đến bên Aighbour.
Với bàn tay còn lại, tôi tóm lấy cổ áo của bộ complê ba phần nâu sờn và kéo chàng trai DEA quay trở lại hành lang. Vào khuất tường, tôi nhẹ nhàng thả anh xuống, giơ chân đạp thật mạnh cho cánh cửa rất dày và rất nặng bằng thép sập vào khóa.
Ngay lập tức, tôi khám xét vết thương cho Aighbour. Anh bị thương nặng. Tôi đếm tới ba lỗ hổng vết đạn ở khu ngực. Nhưng Aighbour vẫn còn thở. Mặt anh nhăn nhó vì đau, vô vàn những giọt mồ hôi lạnh xuất hiện trên trán.
Tôi chăm sóc vết thương cho anh hết sức mình. Aighbour phải gấp rút được đưa đến gặp bác sĩ cấp cứu, nếu không sinh mạng sẽ khó bề cứu vãn.
Chính trong lúc đó, những nhân vật tò mò đầu tiên chạy từ hướng câu lạc bộ Timothy lại. Giờ họ đã dồn cả vài tá người trong khoảng hành lang chật hẹp.
Tiếng súng nổ trong khoảng sân sau có phần dịu xuống. Tôi hy vọng Phil đủ sức cầm cự một mình cho tới khi Steve và Zeery tới giúp. Trước mắt, tôi phải giúp Aighbour và xử lý đám người tò mò.
Vấn đề thứ hai hầu như tự giải quyết lấy.
Khẩu súng trong tay tôi và bức tranh của chàng Aighbour bị thương chắc là đã quá nhiều đối với trí tưởng tượng thấm đẫm mùi thuốc phiện của đám người trẻ tuổi.
Dòng người tò mò đột ngột chững lại. Những tiếng kêu kinh hãi vang lên. Một vài cô con gái ban nãy còn lượn lờ bên bar rượu, giờ đây hoảng hốt chỉ tay về phía tôi. Tỏ vẻ họ muốn đổ trách nhiệm cho tôi về tình trạng của Aighbour.
Một ngươi đàn ông gạt những vị khách kinh hoàng sang bên, đi tới. Đó là chàng trộn nhạc. Bộ tai nghe chống ồn bây giờ được hạ xuống ngang cổ. Anh ta bước về phía tôi, cúi xuống nhìn Aighbour.
— Trông tệ quá, - chàng trai nhận xét. - Tôi có thể giúp gì được cho anh không?
— Làm ơn ngăn đám người tò mò kia lại, - tôi nói. - Không đùa được với bọn đàn ông ngoài kia đâu. Tôi không muốn có những người vô tội bị kéo vào việc này!
Như để chứng minh cho lời tôi, đúng trong lúc đó tiếng ồn của đọ súng ở đằng sân sau lại rộ lên. Steve và Zeery đã tới.
Người con trai có những bím tóc Rasta kinh hãi nhìn tôi. Nhưng hình như anh ta là người duy nhất trong đám thanh niên ở đây ý thức được mức độ trầm trọng của tình huống!
— Anh có thể tin vào tôi, - anh ta nói.
Anh ta dọn đường cho hành lang trống ra.
— Sẽ có xe cấp cứu ngay lập tức để đón người bị thương, - tôi nói thêm, mặt lúc bấy giờ đã quay trở lại cửa hậu.
Tôi hé cánh cửa sắt ra một khe rất nhỏ và nhìn ra ngoài trời tối. Năm thằng con trai đã biến khỏi khu vực đám xà bần. Trò đọ súng bây giờ chuyển sang một khoảng sân khác.
Tôi lẻn người qua cửa, chìm mình vào không gian tối thẫm của sân sau. Mắt chỉ còn kịp nhìn thấy một vài dáng người mờ ảo mất hút vào ngôi nhà hoang vắng phía đối diện. Phil chầm chậm đứng lên từ cụm thùng rác.
— Chúng nó biến rồi, - anh lạnh lùng nhận định. - Steve và Zeery đang đuổi theo. Nhưng mình tin là các cậu ấy chẳng gặp may đâu. Toàn bộ vụ này đã được chúng lên kế hoạch trước.
Thật thận trọng, chúng tôi tiến dần tới đống xà bần. Khoảng đất ở đây đầy vỏ đạn. Ở mé bên kia đống xà bần có một gã đàn ông đang nằm ngửa. Vũ khí vẫn còn nằm trong hai bàn tay cứng quèo của nó.
Chúng tôi khám xét gã đàn ông, nhận ra rằng gã đã chết. Một trong toán năm đứa đã phải trả giá cho cú ra quân giết chóc của nó bằng mạng sống. Phil, sau một hồi lục lọi túi quần, túi áo của kẻ đã chết, thất vọng nhận ra rằng gã không hề mang giấy tờ gì bên mình.
Anh bạn tôi lắc đầu.
— Mình không hiểu, - anh quay sang tôi. - Hoặc là DEA cho tới nay đã đánh giá quá thấp doanh thu của các loại thuốc phiện thời trang, hoặc là ở đây bọn mình đang phải đối mặt với một thằng điên. Năm đứa con trai vừa rồi còn điên khùng thậm tệ hơn là bọn Mafia thời kỳ cấm rượu.
Chính trong lúc đó, Steve và Zeery quay trở lại sân trong. Bốn tên kia đã lên một chiếc ô tô tẩu thoát. Hai bạn đồng nghiệp của chúng tôi không có cơ hội đuổi theo bốn thằng điên đó, bởi chiếc xe của họ đang đậu ở một khoảng phố khác. Vậy là họ chỉ còn biết báo cáo về trung tâm, ra lệnh truy lùng. Nếu gặp may, rất có thể các bạn đồng nghiệp trong lực lượng cảnh sát thành phố sẽ tóm được chiếc ô tô chạy trốn.
Chúng tôi quay trở lại câu lạc bộ Timothy. Aighbour lúc đó đã nằm trên cáng cứu thương và được chuẩn bị để lên đường vào viện. Tôi nói với người hộ lý là ở đằng sân sau có một xác chết.
— Nhưng anh đừng sờ vào nó, cho tới khi nhân viên điều tra dấu vết tới nơi, - tôi dặn với theo hai người hộ lý đang khiêng Aighbour đi dọc hàng lang.
Cả bốn đứa chúng tôi câm nín nhìn theo cáng. Chúng tôi hiểu rõ, chuyên này có thể xảy ra với bất kỳ đứa nào trong bọn. Mức độ tàn bạo của đối thủ khiến đến cả chúng tôi cũng ngạc nhiên. Không một ai tính đến một phản ứng bạo liệt kiểu này.
— Nơi đang tụ bão là đây, - Phil nói thành lời những gì tôi nghĩ. - Đây không phải chỉ là chuyện của một điểm bán thuốc phiện thời trang đâu.
Tôi gật đầu hưởng ứng.
— Có cái gì đó cho mình biết, bọn mình phải vội vàng lên, phải tìm cho ra ngay trò nào đang diễn ra tại đây, trước khi không biết bao nhiêu người vô tội trở thành nạn nhân của câu chuyện này!
Chẳng bao lâu, câu lạc bộ Timothy tràn ngập các cảnh sát viên thành phố. Các nhân viên điều tra dấu vết lao vào việc. Chúng tôi không còn chuyện gì để làm ở đây nữa.
* * *
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi gặp nhau trong văn phòng. Công việc điều tra đang chạy hết tốc lực. Thông điệp về lối ứng xử cực kỳ đẫm máu của bọn gangster đã thổi lên một làn sóng xôn xao trong trụ sở chính của FBI. Thậm chí đến cả Mr. High, người chẳng mấy khi mất bình tĩnh, bây giờ cũng tỏ ra lo lắng.
Vụ của chúng tôi được đẩy lên hàng ưu tiên tối thượng. Bộ phận lưu trữ hồ sơ, dịch vụ nhận dạng và các phòng kỹ thuật hình sự ngay lập tức nhảy vào cuộc.
Anh chàng Steve tóc vàng rơm ngồi xuống bên máy tính của mình và xử lý toàn bộ những dữ liệu mà chúng tôi nhận được từ phía DEA. Ở trong đó có ghi chú về tất cả những tay buôn cò con cho tới nay đã từng hoạt động trên thị trường thuốc phiện thời trang. Chúng tôi hy vọng qua con đường này sẽ tìm thấy một dấu vết dẫn chúng tôi đi tiếp.
Zeerookah, anh bạn đồng nghiệp dòng máu da đỏ thì bám sát vào chiếc máy điện thoại, thúc giục tất cả các công sở khác nhau đã từng có liên quan đến vụ này, tìm những thông tin khác.
Trong thời gian đó Phil và tôi ngồi làm việc với chuyên gia tạo chân dung Peiker. Theo lời miêu tả của hai chúng tôi, anh tạo ra ảnh Phautom của ba đứa con trai tôi hôm qua đã dụ chúng tôi vào bẫy tại câu lạc bộ Timothy. Sau đó, anh vẽ ảnh của gã đàn ông đầu cạo trọc đã bị chúng tôi đuổi đi trên những bậc thềm trước cửa câu lạc bộ. Khi Peiker xong việc, Phil và tôi chăm chú đánh giá kết quả.
— Xuất sắc, - tôi khen ngợi nghệ sĩ của FBI. - Rồi bọn mình sẽ in cái này làm nhiều bản và dán vào tay bất cứ một người nào có liên quan đến vụ này!
Peiker hối hả bước đi cùng những tấm ảnh để thực hiện yêu cầu của tôi.
Chính trong lúc đó, Dillaggio lên tiếng. Giống như mọi khi, hôm nay anh lại tới sở trong một bộ đồ trau chuốt hết mực. Một thói quen mà anh không bỏ nổi, kể cả chuyện không biết bao nhiêu bộ quần áo đắt tiền của anh đã bị rách tan tành trong những lần ra quân nguy hiểm.
— Mình vừa nói chuyện với bệnh viện Manhattan, - anh tuyên bố. - Robert Aighbour vẫn nằm ở khoa cấp cứu. Nhưng các bác sĩ tin rằng anh ấy sẽ vượt qua. Họ còn nói mọi việc sẽ kết thúc tồi tệ nếu Aighbour nằm thêm vài phút nữa trên cái sân khốn kiếp đó!
Tôi biết Dillaggio nói điều đó để khen ngợi lần ra quân của tôi. Tôi cảm ơn anh bằng một nụ cười.
— Cậu còn tìm được gì nữa không? - Tôi hỏi.
Zeery buồn bã nhún vai.
— Chẳng nhiều. Hiện ta vẫn chưa nhận dạng được gã trai đã chết trên sân. Nhưng rất có thể gã là người sống ở Tiểu Italy. Ít nhất thì quần áo gã mặc cũng được mua ở trong những cửa hiệu nổi tiếng của khu này. Người ta đoán rằng, đây là một người Mỹ gốc Italia.
Tôi cân nhắc một thoáng. Nhưng thông tin còn quá mỏng manh, chưa thể lấy làm cơ sở để xây dựng những lời đoán.
Chúng tôi dốc lực làm việc tiếp. Franca Lucano có lần đi ngang qua phòng bọn tôi và hỏi thăm tình hình. Nhưng tôi không có thời gian để nói chuyện với cô bạn đồng nghiệp người Italia xinh đẹp. Kể cả Phil, cho tới nay chưa một giây phút nào thèm che giấu cảm tình của anh đối với Franca, cũng chỉ nói được đôi lời hỏi han vui vẻ. Tuy nhiên hai người cũng còn cố hẹn gặp nhau tối nay.
Dù sao chăng nữa, viễn cảnh đầy hấp dẫn làm tính tình Phil vui vẻ thêm mấy bậc. Nhưng những sự kiện đêm qua còn đè quá nặng trên vai chúng tôi. Khiến cơn vui của Phil chẳng kéo dài được mấy lâu.
* * *
Chúng tôi đã chia tay với niềm hy vọng còn tìm được một lời chỉ dẫn hữu hiệu trong ngày hôm nay. Không khí trong văn phòng thật nặng nề.
Chuyện cũng không thay đổi khi Peiker cuối cùng quyết định với tập ảnh phóng trong tay. Anh đã làm việc rất chăm chỉ và đã kịp phân phát những bản copy cho các bạn đồng nghiệp cùng các bộ phận trực thuộc.
Peiker đặt lên bàn trước mặt chúng tôi một tập dày ảnh phantom rồi anh bỏ đi.
Chúng tôi cùng nhau xem ảnh. Khi Steve Dillaggio nhìn thấy chân dung của gã bán thuốc phiện trọc đầu, nét mặt anh đột ngột bừng sáng.
— Mình đã nhìn thấy cái mặt này ở đâu đó một lần rồi, - anh nói và đưa tay cầm tấm ảnh copy. Thế rồi anh lại ngồi xuống trước máy tính.
— Trong phòng lưu trữ hồ sơ của DEA cũng có một tập tin chứa ảnh, - anh giải thích.
Cả hai chúng tôi bước đến sau ghế của anh, hy vọng nhìn lên màn hình. Bàn tay Steve lướt thật nhanh trên bàn phím. Rồi anh kéo một loạt tên của các tập tin trên màn hình.
— Công việc của DEA trong phạm vi thuốc phiện thời trang vẫn còn nằm ở giai đoạn bắt đầu, - Steve nói tiếp, tay vẫn không ngừng điều khiển con chuột máy tính tiến theo một đường dẫn dài tưởng chừng vô tận qua cây thư mục. - Dữ liệu có phần còn chưa đầy đủ, cần phải bổ sung thêm nhiều, về các tập ảnh cũng vậy. Đa phần những tay bán thuốc phiện chỉ được nêu danh ở đây. Mà ngoài ra có vẻ như thị trường này có một dòng xê dịch kẻ buôn người bán rất lớn.
Vừa tiếp tục bản báo cáo của mình, Steve cuối cùng đã lôi được tập ảnh lên trên màn hình. Cứ sau mỗi một cú bấm phím, anh lại phi lên trên màn hình một cụm ảnh mới.
— Đây, nó đây, - cuối cùng Steve reo lên.
Từ màn hình có một gã đàn ông đang nhìn thẳng vào chúng tôi. Chính cái gã đã trải qua cuộc đụng độ nho nhỏ cùng Phil và tôi trên bậc thềm trước cửa vào rạp chiếu phim cũ. Cuối cùng thì kế hoạch của chúng tôi đã cho những kết quả đầu tiên.
Gã này tên là Max Arnold. Địa chỉ được khai là đại lộ Woodycolst tại khu Bronx. Theo những dữ liệu ở đây thì gã 30 tuổi và đã hoạt động trong nghề này lâu rồi. Aighbour còn đánh dấu thêm vào đây một dấu chấm than. Rõ là anh ta đang định thu nạp Max Arnold làm nguồn thông tin!
— Chính là đối tượng của ta đấy! - Tôi vui vẻ kêu lên.
Một ánh mắt liếc xuống đồng hồ. Đã quá 18 giờ một chút.
— Nếu ta vội lên, - tôi xoay sang Phil, - Có thể ta còn kịp tới thăm gã Max này trước cuộc hẹn hò của cậu với Franca Lucano.
Phil lúc đó đã khoác áo khoác lên vai và đang trên đường tiến ra cửa phòng làm việc.
— Đừng chờ gì nữa, - anh nói.
Chỉ vài phút sau chúng tôi đã ngồi trong chiếc Jaguar của tôi.
Chúng tôi vượt dòng sông Harlem bằng cầu Macombs Dam. Đó là một trong số ít ỏi những cây cầu nối khu vực Manhattan với Bronx. Từ đây tới đại lộ Woodycolst chỉ cần một bước mèo nhảy nữa mà thôi.
Suốt cả ngày hôm nay mặt trời dù có cố gắng bao nhiêu cùng những tia sáng của nó cũng không thể xuyên thủng nổi quả chuông bằng khói thải đang chụp xuống thành New York từ cả một tuần nay. Trời hầu như lặng gió tuyệt đối.
Nhưng khi chúng tôi rẽ vào đại lộ Woodycolst, vẫn có một vài tia sáng riêng lẻ của mặt trời đang đứng trên đỉnh núi đi lạc được xuống tới những dãy nhà dưới này.
Hai dãy nhà đơn lập dọc hai rìa đường hầu như gây ấn tượng vui mắt, hiền hòa. Một ấn tượng đã không biết bao nhiêu lần lộ rõ là tấm màn lừa dối.
Chiếc xe thể thao màu đỏ của tôi dừng sững lại trước ngôi nhà số 354. Chúng tôi chờ vài phút trong xe, quan sát toàn cảnh. Nhưng không một dấu vết khả nghi.
Trước khi rời xe Jaguar, Phil báo tin lần cuối về cho các bạn đồng nghiệp.
Tiếng chuông thứ nhất của chúng tôi không có lời đáp trả. Vậy mà một thoáng chuyển động nhỏ đằng sau tấm rèm ở lầu một vẫn không lọt qua được mắt tôi.
Tôi gật đầu rất nhẹ về phía Phil. Bạn tôi hiểu ra ngay lập tức. Rất nhẹ nhàng bình thản, anh để tôi đứng đó và bình tĩnh đi vòng quanh ngôi nhà, bằng cách nhảy ngay qua hàng rào tương đối thấp. Chúng tôi không muốn đối tượng có thể qua cửa sau mà thoát đi.
Tôi bấm chuông lần nữa. Kết quả không thay đổi. Tôi đã muốn dùng nắm đấm giữ lấy cánh cửa, thì đột ngột tai nghe thấy một tiếng động lạ. Một tiếng kéo sệt đặc biệt, ngay phía trên đầu tôi.
Ra cậu chàng đang định trốn qua đường mái nhà! Suy nghĩ xuyên vọt qua não tôi.
Thật nhanh, tôi rời nhà bước lùi về, nhìn lên cao. Thật đáng tiếc, chính trong lúc đó, mặt trời tà tà đỉnh núi chiếu thẳng tới khiến mắt tôi chói lóa. Vừa còn vui vẻ với ánh mặt trời thân thiện bao nhiêu, bây giờ tôi nguyền rủa thứ ánh sáng bất tiện ấy bấy nhiêu.
Giơ tay che mắt, tôi nhìn thấy lờ mờ một quầng tối lướt trên mái nhà. Đúng lúc đó, cửa nhà trước mặt tôi mở ra, Phil đứng trong khuôn cửa.
— Cửa hậu mở toang, - anh nói và kịp nhìn nét mặt ngạc nhiên của tôi.
— Thằng cha đó trèo lên mái nhà, - tôi kết luận.
Không cần một lời giải thích thêm. Phil lập tức nhào ngược lại vào trong. Tôi biết anh sẽ tìm con đường lên mái nhà, tiếp tục truy đuổi. Về phần mình, tôi chạy dọc theo con phố. Ánh mắt không rời dãy mái nhà bên trên.
Tới một lúc nào đó, kẻ đào tẩu thể nào cũng phải lộ mặt ra. Bởi những ngôi nhà đơn lập này đứng cách nhau bằng một đường đi hẹp. Đối tượng của chúng tôi phải nhảy qua khoảng cách hơn hai mét đó, nếu không muốn bị Phil tóm gọn ở phía bên dưới.
Tôi đã nhìn thấy anh ta rồi. Cái đầu không tóc in rất rõ trên nền trời sáng. Max Arnold chạy đến bên mép mái. Nhưng đến trước khoảng hở, anh chàng dừng lại như mọc rễ.
Hai mắt tôi bây giờ đã làm quen được với tỷ lệ ánh sáng nhập nhoạng. Tôi nhận thấy tay buôn thuốc phiện đang hoảng hốt nhìn quanh. Đó là dấu hiệu Phil đang bám rất sát gã ta. Gã chần chừ thêm một thoáng. Thế rồi gã lấy đà định nhảy.
Với đôi chân xoạc ra và hai cánh tay vung vẩy, chới với, gã bay qua khoảng không. Nhưng gã không vượt hẳn được khoảng cách trên hai mét đó. Cái chân xoạc ra của gã trượt khỏi rìa mái nhà đối diện. Phần thân dưới đập vào tường nhà. Nhưng hai bàn tay còn kịp tóm vào rìa mái.
Tuyệt vọng, gã bám chắc vào đó. Thế rồi gã thét lên cầu cứu. Giọng cao vói lên vì sợ.
Giờ thì Phil hiện ra ở rìa mái nhà bên này. Anh dừng lại, ngần ngừ.
Ngay lập tức tôi hiểu rằng Phil sẽ không thể nhảy sang mái nhà bên kia mà không làm hại tới gã đàn ông đang tuyệt vọng bám vào rìa mái. Gã có thể bị trượt đi và rơi từ trên mái xuống quá dễ dàng.
Tôi vẫy về phía Phil, ra hiệu cho anh đứng nguyên tại chỗ đó. Rồi tôi chạy ào tới.
Từ cú đập cương quyết của tôi, cửa mái nhà hàng xóm được mở ra lập tức. Tôi rút chứng minh thư, chìa ra trước mặt người đàn bà to béo đang cầm một cây cọ sàn, trên đầu buộc một chiếc khăn kẻ ca-rô. Rõ là người đàn bà chẳng biết một chứng minh thư FBI là cái gì. Cất giọng Tây Ban Nha, bà ta tìm cách đẩy tôi ra khỏi cửa. Rất có thể bà ta cho tôi là một gã bán hàng rong quấy rối.
Tôi nhận ra có lẽ chủ nhân của ngôi nhà không có mặt, và người đàn bà đang vung vẩy cây cọ sàn trước mặt tôi kia là bà lao công. Cương quyết, tôi gạt người đàn bà sang bên và lao vào hành lang. Rồi tôi theo cầu thang lên, nhảy mỗi bước ba bậc. Ngay sau đó tôi đã đến bên khuôn cửa rất hẹp dẫn lên mái nhà.
Dùng cán khẩu Smith & Wesson, tôi đập văng ổ khóa rời của chiếc cửa dẫn lên mái. Thế rồi tôi gạt cánh cửa sang bên, đu người trèo lên trên.
Tiếng rên rỉ của gã đàn ông vang lên rất rõ ràng. Nhanh hết mức mà độ nghiêng của mái nhà cho phép, tôi lướt tới. Tìm một chỗ bám thật chắc, tôi tóm lấy cổ tay gã đàn ông, giữ gã chặt lại.
Thật chậm, tôi nhô đầu từng centimet qua khỏi rìa mái nhà, cho tới khi nhìn thẳng vào gương mặt nhăn nhúm của gã đàn ông trọc đầu.
— Ta lại gặp nhau, - tôi nói.
Tôi biết tôi đã tóm gã rất chắc. Không còn lo gã bị rơi xuống dưới nữa. Nhưng tôi cũng muốn tận dụng cơ hội này cho mục đích của mình.
Vì thế, tôi quyết định kéo dài khoảng thời gian tra tấn gã thêm một chút.
— Cuộc dạo chơi trên mái nhà này là có nghĩa gì hả? - Tôi bình tĩnh hỏi, giọng tỉnh như không. - Chả lẽ người ta luôn trốn tránh khách khứa kiểu này sao?
— Anh để cho tôi… được yên, - gã con trai rên lên, mặt đỏ bừng. - Tôi… tôi hoàn toàn… không dính dáng gì đến việc ở sân câu lạc bộ Timothy, không dính dáng gì!
— Sao chú em lại tin chắc thế, - tôi đào luôn vào lỗ hở hắn vừa để lộ ra.
— Tôi… tôi không thuộc… về nhóm người đó, - gã con trai lắp bắp. - Người ta… người ta ép tôi!
— Nghe hay đấy, - tôi nói, vẻ đắn đo. - Nếu chú em sẵn sàng cộng tác…
— Vâng, vâng, - gã thề thốt. - Nhưng mà làm ơn…, làm ơn kéo tôi lên đi!
Tôi chiều ý gã!
Với hai cánh phổi chắc là đang bơm hết tốc lực, gã nằm một lúc trên mái nhà. Rồi tôi kéo gã đứng dậy, ra lệnh cho gã đi trước về phía cửa mái.
Người đàn bà Tây Ban Nha vẫn chưa buông cây cọ sàn khỏi tay. Hẳn là bà ta có ý định dùng nó làm vũ khí chống lại tôi. Ít nhất thì tôi cũng tin như thế khi nhìn tư thế đe dọa của bà đang chờ tôi dưới cầu thang.
Tôi giơ hai tay ra dáng giảng hòa, xoa dịu, và lần này bỏ thời gian để giải thích tử tế. Giờ không còn ai bị nguy hiểm tới tính mạng nữa.
Dần dần, có vẻ như người đàn bà mập mờ hiểu ra rằng tôi là người của cảnh sát. Bà ta ném một cái nhìn nghi ngờ về phía anh bạn đường miễn cưỡng của tôi, nhưng tránh ra cho chúng tôi đi qua cầu thang.
Sự nghi ngờ của người đàn bà chỉ hoàn toàn biến đi khi tôi chia tay với bà bên cánh cửa bằng tất cả vốn lịch sự gom góp được từ trước tới nay. Bà ta thậm chí còn trao cho tôi một nụ cười ngượng ngùng.
Mé dưới phố đã có Phil chờ sẵn.
— Cho phép mình giới thiệu cộng tác viên mới, - tôi nói với Phil. - Arnold đã nhìn nhận ra rằng tốt hơn cả là khai hết!
Người đàn ông đi bên cạnh tôi khẽ gật đầu, tuân phục số phận.
Thế rồi cuối cùng, cả ba chúng tôi bước vào nhà Max Arnold.
— Tôi thật sự không liên quan gì đến bọn quái vật đó, cái bọn quái vật đã giết chết bạn đồng nghiệp của các anh, - Arnold thề thốt không biết đến lần thứ bao nhiêu.
Phil và tôi tuyệt đối không để lộ chúng tôi đánh giá lời thề thốt đó như thế nào. Chúng tôi muốn để cho gã trai giãy giụa bối rối thêm một chút, để rút từ người gã ra tất cả những thông tin nào có thể rút được.
— Thế thì tại sao năm thằng điên đó lại xuất hiện ngay sau cuộc gặp gỡ nho nhỏ của chúng ta? - Phil hỏi. - Tôi không tin vào chuyện tình cờ đâu đấy!
Lúc đó Phil đang đứng bên cửa sổ, miệng nói mà mắt vẫn quan sát góc phố bên dưới. Arnold đang ngồi trên chiếc ghế sofa bọc da, một bức tranh thảm hại. Cú sốc vẫn còn ngự trị trong cơ thể gã ta.
Tôi đi đi lại lại trong căn phòng, chăm chú nhìn quanh. Rồi tôi dừng lại trước một kệ sách.
Arnold có vẻ đang cân nhắc. Gã bối rối cựa quậy trên sofa.
— Chúng tôi đang chờ câu trả lời đây, - tôi nói và rút một cuốn sách ra khỏi kệ. Nó mang tựa đề: “Những cánh cửa của cảm xúc”, được viết bởi ngòi bút của Aldous Huxlly, đối tượng của cuốn sách là những loại thuốc phiện gây ảo giác. Làm sao mà khác được! Và những cuốn khác trên kệ này cũng chỉ nói đến duy nhất một đề tài đó. Dĩ nhiên không thể thiếu các kinh điển của Timothy Leary.
Chờ mãi vẫn không thấy câu trả lời, tôi lại xoay về phía Arnold. Gã con trai trọc đầu nhìn tôi bằng đôi mắt ngập tràn sợ hãi.
— Tôi mà hét lên là bỏ mạng ngay, - gã nói bằng giọng run rẩy. - Chính các anh cũng đã nhìn thấy bọn chúng nó xử sự kiểu gì. Chúng nó không chần chừ lấy một giây đâu, chúng nó nhảy xổ vào cổ tôi ngay lập tức.
— Nếu bọn người đó thật sự tỉnh táo như là anh tưởng, thì chúng cũng đã nhận thấy từ lâu rằng anh có khách là FBI. Và anh đã bị gạch khỏi danh sách từ lâu rồi. Dù bây giờ anh có khai hay là không!
Ánh mắt của Arnold bập bùng run rẩy thêm một vài độ nữa. Rõ là bây giờ gã mới hiểu rằng lời tiên đoán của tôi không phải vô lý.
— Thôi được, - gã thở dài. - Tôi chỉ hy vọng là FBI sau này sẽ đền bù cho sự cộng tác của tôi.
— Cái đó tùy thuộc hoàn toàn vào những thông tin mà anh cung cấp cho chúng tôi, - tôi nói.
Arnold nuốt khan. Thế rồi cuối cùng gã khai ra.
— Toàn bộ cái chuyện khùng điên này bắt đầu trước đây khoảng chừng một tuần, - Arnold nói và với tay rút một điếu thuốc ra khỏi hộp. Với những ngón tay lẩy bẩy, gã châm lửa. - Trước đó thì thị trường rất hiền từ. Nhưng rồi đột ngột bọn đàn ông đó xuất hiện. Chúng tới một vài câu lạc bộ và chẳng nói chẳng rằng giết luôn một số người. Nạn nhân là những tay bán thuốc rất hiền lành. Thế nhưng bọn con hoang đó vô cớ thò súng bắn họ chết luôn!
Giọng Arnold gấp giữa chừng, khi gã nhớ lại những vụ giết người khủng khiếp đó.
— Cả tôi cũng có thể bị ăn đạn, - gã nói tiếp, đã bình tĩnh lại được một chút. - Thế rồi một ngày kia, khi thấy chúng xuất hiện ở chỗ mình, tôi đã nghĩ vậy là tôi xong đời. Nhưng chúng nó không muốn giết tôi. Chúng nó chỉ đe dọa là rồi mạng tôi cũng sẽ là đồ bỏ như của những tay buôn tội nghiệp kia, những đứa đã bị chúng nó cắt ngang. Chúng ép tôi phải quyết định, hoặc tiếp tục làm việc cho chúng, hoặc làm quen với nhóm sát thủ.
— Và dĩ nhiên là anh đã chọn phương án thứ nhất, - Phil nói.
— Dĩ nhiên rồi, - Arnold cãi trả. - Kể từ đó tôi lấy hàng của bọn chúng. Chúng nó còn bảo tôi tự sản xuất hàng. Và chúng nó lại nhận mua với giá cao. Tôi chẳng còn mấy cơ hội để lựa chọn.
— Thôi tha cho bạn tôi cái trò than thở phiền não của anh, - Phil cắt ngang. - Chúng tôi không quan tâm đến quan hệ tiền bạc của anh. Nếu anh cần tiền thì hãy tìm một cái nghề cho tử tế!
Arnold nhìn Phil tức tối. Nhưng trước khi hắn kịp phun ra một lời nhận xét nào, thì tôi đã lên tiếng.
— Thế chuyên gì đã xảy ra vào buổi tối hôm đó? - Tôi khoan tiếp vào điểm chủ đạo. - Anh có thể cung cấp tên của những gã đàn ông đã đe dọa anh không?
Arnold ra vẻ hối tiếc nhún vai.
— Chúng chỉ gặp tôi bao giờ chúng muốn. Rất chủ động. Tôi chẳng biết chúng ở đâu mà cũng chẳng biết chúng từ đâu tới. Việc xảy ra tối hôm qua cũng vậy. Sau khi các anh xua tôi khỏi câu lạc bộ Timothy, bọn đàn ông đột ngột hiện ra trước mặt tôi. Chắc là chúng đã quan sát để biết là tôi vẫn theo lệnh chúng. Tôi nói với chúng là bây giờ đã có lực lượng cạnh tranh mới. Bọn đàn ông nổi nóng lên và ngay lập tức biến đi. Thế rồi tôi đi về nhà. Tôi chán lắm rồi. Mãi sáng hôm nay đọc báo tôi mới biết những gì xảy ra đêm hôm qua ở câu lạc bộ Timothy. Và khi nhìn thấy hai anh trước cửa nhà, tôi nghĩ các anh đến đây để trả thù cho trò ra mắt đẫm máu của nhóm năm thằng đàn ông kia. Tôi đâu có biết là FBI đã thò tay vào trò chơi này!
Phil và tôi nhìn nhau. Mặc dù đã nhận được một số thông tin, nhưng rõ là hai chúng tôi đã mong chờ vào cuộc gặp gỡ này nhiều hơn.
Tôi chìa ba tấm ảnh phantom của ba gã trai trẻ tuổi xuống dưới mũi Arnold, ba gã trai đã dụ chúng tôi vào bẫy.
— Anh có biết đứa nào trong bọn này không? - Tôi hỏi.
Arnold nhìn chăm chú ba bức ảnh.
— Tôi không chắc chắn, - gã trai chần chừ. - Rất có thể tôi đã gặp chúng một lần nào đó trong một sàn nhảy Téchno nào đó. Tôi tin rằng cũng đã một vài lần tôi bán hàng cho bọn chúng. Nhưng tôi không nhớ việc đã xảy ra ở đâu và từ bao giờ. Tôi chỉ biết rằng ngày đó chúng không mặc những thứ quần áo bảnh chọe như thế này.
Khi vẽ chân dung, nghệ sĩ Peiker của chúng tôi cũng không quên miêu tả chi tiết cả thứ quần áo đắt tiền của ba gã trai trẻ. Anh chàng “cáo già” của FBI đã ngay lập tức nhận ra rằng, những loại chi tiết như thế trong những tình huống nào đó có thể trở thành tối quan trọng.
Tôi lại đút những tấm ảnh vào trong túi áo veston.
— Chắc là chỉ có vậy thôi, - giọng Phil có vẻ thất vọng vì kết quả của cuộc nói chuyện không nhiều như mong muốn.
Arnold đột ngột nhảy chồm lên.
— Thế bây giờ chuyện gì xảy ra với tôi? - Gã trai hồi hộp hỏi.
Phil và tôi lúc đó đã đến gần cửa ra vào, tôi quay lại một lần nữa với gã trọc đầu.
— Tốt nhất anh nên rời New York một khoảng thời gian, cho tới khi vụ này được giải quyết. Nhiều khi chuyện thay đổi khí hậu có kết quả lớn lắm đấy. Tôi đề nghị nên về miền quê một thời gian. Rất có thể không khí trong lành ở ngoài đồng sẽ khiến anh đâm thèm muốn những công việc trung thực.
Nói tới đó, hai chúng tôi rời ngôi nhà. Chỉ một lát sau chúng tôi đã lại ngồi trong chiếc Jaguar màu đỏ. Qua điện đàm, tôi cho đòi một cảnh sát viên mặc thường phục canh chừng Max Arnold cho tới khi gã rời New York.
Đó là tất cả những gì mà tôi có thể làm được cho Max. Và tôi không nghi ngờ lấy một nửa giây đồng hồ là gã sẽ tuân theo lời khuyên của chúng tôi. Rất có thể bây giờ gã đang cuống cuồng thu dọn những đồ đạc cần thiết nhất trước khi biến khỏi thành phố này.
Tôi xoay chìa khóa xe.
— Giờ mình đưa cậu đến nơi hẹn hò, Phil, - tôi nói.
Ánh lửa bừng sáng trong cặp mắt của người bạn cho tôi biết, đã từ vài phút trước anh chẳng còn nghĩ đến bất kỳ một điều gì khác trên đời, ngoài Franca Lucano.