← Quay lại trang sách

Chương 2 ĐƯỜNG HẦM XUYÊN HÀNG RÀO

NHÀ NGHỈ CỦA DINH THỰ ARUNDEL không chỉ sơn màu vàng, đó là một màu vàng kem tựa bơ đẹp nhất mà gia đình Penderwick từng thấy. Nó có đầy đủ mọi thứ một căn nhà nghỉ cần có, nhỏ nhắn và tiện nghi, với một hàng hiên phía trước, những dây hồng leo trổ hoa màu hồng và rất nhiều cây cho bóng mát.

Chiếc chìa khóa nằm dưới tấm thảm trước cửa đúng như Cagney đã nói. Ông Penderwick mở cửa và cả nhà lần lượt bước vào. Tưởng chừng không còn gì có thể dễ thương bằng phía ngoài của ngôi nhà nữa, ấy vậy mà bên trong nhà còn đáng yêu hơn, tất cả đều có sắc xanh da trời hoặc xanh lục rất đẹp, với những món đồ gỗ vững chãi không thể phá hỏng, trừ phi thật cố gắng. Ngay cạnh phòng khách là phòng làm việc ấm cúng với một cái bàn viết lớn và chiếc trường kỷ mà ông Penderwick lập tức giành lấy, nói rằng ông muốn ở càng xa đám đông hỗn loạn càng tốt.

Bây giờ thì đến lượt mấy chị em đi lên gác và chọn phòng cho mình.

- Chị xí phần chọn trước. – Skye xách vali bước về phía cầu thang.

- Không công bằng! – Jane kêu lên. – Em chưa kịp nghĩ đến mà!

- Chính thế. Chị nghĩ đến trước, nên chị được chọn trước. – Skye nói, em đã leo được nửa cầu thang lên tầng hai.

- Quay lại đây, Skye, - Rosalind gọi. – Để Cún rút thăm thứ tự.

Skye rên rỉ và miễn cưỡng đi xuống. Em ghét phải để mọi việc quan trọng cho Cún quyết định, vả lại, nó luôn luôn rút tên em cuối cùng.

Lễ Cún Rút Thăm Thứ Tự là một nghi thức đã thành truyền thống của mấy chị em. Bốn cái tên được viết lên bốn mảnh giấy nhỏ rồi đặt xuống sàn, bên cạnh là mấy mẩu bánh quy cho chó. Khi sục sạo đánh hơi những mẩu bánh, Cún không thể không đụng phải những mảnh giấy này. Giấy của ai được cái mũi to đùng của nó đụng vào trước thì người ấy được chọn trước. Đụng vào thứ hai thì được chọn thứ hai, cứ thế cho đến hết.

Rosalind và Jane chuẩn bị những mảnh giấy ghi tên, Batty bẻ vụn một cái bánh quy cho chó, còn Skye giữ chặt Cún, thì thầm đọc đi đọc lại tên mình vào tai chú chó, hy vọng có thể thôi miên nó. Nhưng mọi nỗ lực của em đều vô hiệu. Vừa được thả ra là nó đụng vào tờ giấy của Jane đầu tiên, sau đến Rosalind, rồi Batty. Mảnh giấy của Skye thì nó chén luôn cùng mẩu bánh quy cuối cùng.

- Tuyệt thật, - Skye rầu rĩ nói, - Mình phải chọn cuối cùng, và Cún lại sắp sửa nôn rồi. Jane, Batty và Rosalind chạy lên gác cùng với mấy chiếc vali để giành phòng ngủ cho mình. Skye ngồi lại ở dưới nhà và càu nhàu. Em đã mong có thể chọn một căn phòng thật đặc biệt, có lẽ là một căn phòng sơn màu trắng, căn phòng em có thể giữ thật ngăn nắp và có trật tự. Ngày xửa ngày xưa, cách đây nhiều năm rồi, em đã từng có một căn phòng như thế. Nhưng rồi Batty ra đời, được đặt vào phòng của Jane, và Jane chuyển sang với Skye, thế là bỗng dưng một nửa phòng của Skye bị sơn màu tím oải hương và chất đầy búp bê, sách vở cùng hàng đống giấy viết bừa bộn của Jane. Nhưng ngay cả điều đó cũng chưa đến nỗi nào, nếu những con búp bê và tờ giấy kia không liên tục lấn sang phần diện tích của Skye. Chuyện này đã làm Skye phát điên, và bởi vì cùng với thời gian trôi đi, Jane không gọn gàng lên được tí nào, nó vẫn đang làm em phát điên. Thế mà bây giờ, khi đi nghỉ, Skye lại phải chọn cuối cùng, và có lẽ rốt cuộc sẽ phải chui vào một cái tủ tối tăm, xấu xí nào đó ngủ tạm. Đời thật không công bằng chút nào. Rosalin cất tiếng gọi từ tầng trên:

- Skye, bọn chị chọn xong rồi. Lên xem phòng của em đi.

Skye lê bước lên cầu thang và đi xuôi hành lang đến căn phòng Rosalind đã chỉ. Em bước vào và kinh ngạc đến nỗi tuột tay khiến chiếc vali rơi xuống sàn đánh “thình” một cái. Không phải một cái tủ tối tăm xấu xí nào hết. Các chị em của em đã dành cho em căn phòng hoàn hảo nhất mà Skye từng thấy. Phòng rộng, trắng bong, sạch như li như lau, với sàn gỗ bóng lộn và ba cái cửa sổ. Và có đến hai cái giường! Em có hẳn một chiếc giường trống cho riêng mình mà không kèm theo một bà chị hay cô em nào cả!

Em sẽ không thay đổi bất cứ thứ gì trong căn phòng này, Skye quyết định. Em sẽ để nguyên mọi thứ trong vali, rồi cất vali vào trong tủ và để trống mặt bàn trang điểm cũng như giá sách. Không búp bê, không lược và bàn chải, không cả những quyển vở viết đầy truyện Sabrina Starr. Và em sẽ dùng cả hai cái giường, ngủ trên một cái vào thứ Hai, Tư, Sáu, còn cái kia vào thứ Ba, Năm, Bảy. Đến Chủ nhật thì em sẽ phải chuyển giường vào nửa đêm vậy.

Skye mở vali, lôi ra một quyển sách toán – em đang tự luyện môn đại số cho vui – và viết thời gian biểu cho hai cái giường vào bên cạnh bài toán ưa thích của em, về hai đoàn tàu đi ngược chiều nhau. Sau đó em lục tìm chiếc mũ rằn ri may mắn của mình, cái em đã đội khi ngã từ trên mái gara xuống mà không gãy tay gãy chân gì hết. Nó đây rồi, bên dưới mấy chiếc áo phông màu đen của em. Skye chụp cái mũ lên đầu, đóng vali lại và nhét nó vào trong tủ.

- Giờ thì thám hiểm nào, - em nói, và thêm một cái nhìn thật lâu, đầy thỏa mãn căn phòng lộng lẫy của mình, em liền đi tìm các chị em gái.

Rosalind ở cuối hành lang trong một căn buồng nhỏ - chỉ có một cửa sổ và một cái giường - em đang cẩn thận sắp xếp quần áo từ vali vào ngăn kéo bàn trang điểm.

- Chị đã nhường cho em cái phòng đẹp hơn, - Skye nói.

- Chị muốn ở gần Batty, - Rosalind nói.

- Dù sao cũng cảm ơn chị, - Skye nói, thừa biết Rosalind hẳn sẽ thích một căn phòng rộng rãi hơn.

Rosalind lấy một bức ảnh lồng khung từ trong vali ra và đặt nó lên cái bàn nhỏ đầu giường. Skye bước qua để ngắm, mặc dù đã biết rất rõ các bứa ảnh - ở nhà Rosalind cũng đặt nó trên chiếc bàn đầu giường, và Skye đã nhìn thấy nó cả triệu lần. Đó là bức ảnh bà Penderwick đang cười và ghì chặt một bé Rosalind xíu xíu, nhỏ đến nỗi ngay cả Skye cũng chưa ra đời, chứ đừng nói gì đến Jane hay Batty.

Cả gia đình Penderwick đều nhất quyết tin Skye lớn lên sẽ giống hệt mẹ. Có nghĩa là cả gia đình, trừ Skye. Em cho rằng mẹ em là người phụ nữ xinh đẹp nhất mà em từng thấy, và khi nhìn vào gương thì Skye tuyệt nhiên chẳng thấy có gì là xinh hay đẹp cả. Mái tóc vàng và cặp mắt xanh thì giống nhau, đúng là vậy nhưng cũng chỉ đến thế là hết, theo như những gì Skye thấy. Và tất nhiên, còn có một điểm khác biệt lớn nữa – Skye không bao giờ tưởng tượng ra mình lại có thể vừa ôm một đứa bé sơ sinh vừa cười được. Batty nhảy òa từ tủ quần áo của Rosalind ra, đôi cánh phấp phới sau lưng.

- Em tìm thấy một lối đi bí mật, - Batty nói.

Skye nhòm vào tủ và nhìn xuyên vào một căn phòng khác giống hệt phòng của Rosalind, nhưng có chiếc vali của Batty nằm mở ra trên giường.

- Đây đâu phải là lối đi bí mật. Nó chỉ là một cái tủ chung giữa hai phòng thôi mà.

- Nó là lối đi bí mật. Và chị không được đi qua.

Skye quay lưng lại với Batty và nói với Rosalind:

- Em sắp đi thám hiểm đây. Chị có muốn đi cùng không?

- Chưa phải bây giờ, chị vẫn còn phải xếp đồ. Sao em không đưa Batty đi cùng? – Rosalind nói.

- Không, - Skye và Batty đồng thanh. Skye vội chạy đi trước khi Rosalind kịp tìm cách thay đổi ý kiến của một trong hai đứa.

Jane đã giành lấy căn phòng trên tầng ba, thực ra chỉ là một căn gác xếp. Skye nhảy chân sáo lên một cái cầu thang dốc đứng và tìm thấy cô em gái đang ngồi trên mép một chiếc giường hẹp bằng đồng, viết lia lịa vào một quyển vở màu xanh và lẩm bẩm:

- Cậu bé Arthur lắc những song sắt và nổi cơn thịnh nộ khi nghĩ đến tên bắt cóc độc ác – không, như thế thì có vẻ kịch tính quá. Thế này có được không nhỉ, Arthur buồn rầu nhìn – không, cậu bé cô độc có tên là Arthur buồn rầu nhìn ra ngoài cửa sổ, không dám mơ tưởng là sự giải thoát đang đến gần. Câu này hay đây. Cậu không biết rằng Sabrina vĩ đại…

Skye cắt ngang.

- Chị sắp đi thám hiểm đây. Em có muốn đi cùng không?

Mắt sáng rực, Jane nói:

- Chị nhìn căn phòng tuyệt vời này mà xem. Đúng là căn phòng dành cho một nhà văn. Em biết em sẽ viết được câu chuyện hay nhất về Sabrina Starr ở đây. Em cảm thấy thế. Chị có cảm thấy thế không?

Skye nhìn quanh căn buồng bé tẹo, với trần nhà dốc và một ô cửa sổ tròn cao tít phía trên. Chưa gì sàn nhà đã đầy sách rồi.

- Không, chị chẳng cảm thấy gì cả.

- Ôi, cố tí nữa xem nào. Cảm giác ấy mạnh lắm. Em tin là một nhà văn nổi tiếng nào đó đã ở trong căn phòng này trước em. Ví dụ như Louisa May Alcott hay Patricia MacLachlan [6] chẳng hạn.

- Jane, em có muốn đi cùng chị hay không nào?

- Không phải bây giờ. Em phải viết nốt mấy ý tưởng cho quyển sách của em đã. Có lẽ lần này em sẽ cho Sabrina Starr giải cứu một người thật. Một cậu bé. Chị thấy thế nào?

- Chị nghĩ nó chẳng giải cứu nổi một con chuột chũi, - Skye đáp, nhưng Jane đã lại cắm cúi viết.

Skye chạy xuống hai tầng cầu thang và ra ngoài. Em tìm thấy ông Penderwick đang đưa Cún vào chuồng. Trong mắt Skye, đấy quả là một kiểu thiên đường dành cho loài chó. Hàng rào sắt cao – mà Cún thì không ưa hàng rào – nhưng bên trong rộng rãi, có cây cho bóng mát, cành củi để gặm, lại có hẳn một khoảnh đất để cào bới nữa. Thêm vào đó, ông Penderwick đã đặt một cái bát to tướng chất đầy món ăn yêu thích của Cún và hai bát nước sạch. Ấy vậy mà Cún chẳng tỏ vẻ biết ơn chút nào. Khi nhìn thấy Skye, nó xô vào cánh cổng, sủa váng và rít lên như thể nó đang bị nhốt trong ngục tối vậy.

- Im ngay, con chó quái quỷ, - ông Penderwick quát.

- Nó đang tìm cách mở cổng đấy bố, - Skye nói, ngắm Cún dùng mũi hết thúc lại đẩy chiếc then sắt.

- Đấy là loại then chống chó. Nó sẽ không ra được đâu.

Skye thò tay qua hàng rào và gãi mũi Cún.

- Bố, con đi thám hiểm đây. Có được không ạ?

- Miễn là con quay về trước giờ ăn tối một tiếng. Và Skye này, quidquid agas prudenter agas et respice finem [7] .

Ông Penderwick không chỉ dùng tiếng Latinh cho thực vật học, ông còn đá nó vào lời nói thường ngày. Ông bảo như thế giúp cho đầu óc mình được liên tục vận động. Phần lớn thời gian các cô con gái chẳng hiểu ông nói gì, nhưng Skye đã nghe câu này quen rồi, mà ông Penderwick thường dịch thoát nghĩa là “nhớ nhìn trước ngó sau và đừng làm chuyện gì điên rồ.”

- Bố đừng lo, - em nói, và nói thật lòng. Lẻn vào vườn của bà Tifton nọ, điều Skye định làm, hoàn toàn không điên rồ chút nào. Tất nhiên, đó không hẳn là một việc làm đúng đắn – theo lời bác Harry bán cà chua – nhưng nhỡ bác ấy nhầm thì sao? Nhỡ bà Tifton lại thích có người lạ đi lang thang trong các khu vườn của mình thì sao? Dù sao thì chuyện gì cũng có thể, Skye nghĩ, vậy là em vẫy chào bố và Cún rồi lên đường.

Khoảnh đất bao quanh nhà nghỉ đủ rộng cho ba đến bốn sân bóng đá. Nhưng không thể đá bóng ở đây được, Skye nghĩ – có nhiều cây quá. Cây mọc dày nhất ở phía sau căn nhà, và khoảng đất ở giữa thì lại đầy những bụi cây thấp nhiều gai. Khu đất phía trước có vẻ hấp dẫn hơn nhiều. Ở đây cây mọc thưa hơn, và nằm giữa chúng là bãi cỏ tuyệt đẹp với những bụi hoa dại.

Một phía của mảnh đất là bức tường đá cao ngăn cách căn nhà với các nhà hàng xóm. Dọc đằng trước nhà và phía còn lại là hàng rào ranh giới. Skye biết khu vườn của bà Tifton nằm phía sau hàng rào ấy. Em có hai cách để đến được đó. Một là đi vòng lại con đường dành cho ôtô và chui qua lỗ hổng ở hàng rào. Cách đó thì chán quá, và lại dễ bị tóm nữa – không dễ gì mà lẩn trốn được trên con đường dành cho xe ôtô. Cách thứ hai, em có thể bò qua hàng rào và chui ra ở phía bên kia trong một góc vườn kín đáo nào đó, nơi bà Tifton hay bất kỳ ai khác cũng không thể phát hiện ra em.

Chắc chắn là lựa chọn thứ hai rồi, Skye quyết định, quay ngoắt khỏi con đường dành cho ôtô và chạy về phía hàng rào. Nhưng hàng rào rậm và nhiều gai hơn em dự đoán, và sau vài lần cố gắng chui qua, em chẳng thu được kết quả gì ngoài hai vết rách trên mũ và tay bị cào xước đến nỗi trông như thể em vừa đánh nhau với một con hổ vậy. Thế rồi, đúng lúc đang định bỏ cuộc và vòng trở lại con đường dành cho ôtô thì em phát hiện ra một lối vào. Đó là một đường hầm được ngụy trang cẩn thận đằng sau một bụi hoa dại rất cao, vừa đủ rộng để bò qua. Này nhé, nếu Rosalind là người đầu tiên phát hiện ra đường hầm này, hẳn em sẽ để ý thấy rằng nó được tỉa gai quá kỹ càng, không thể tự nhiên mà có ở đó được, em sẽ suy ra là nó được ai đó sử dụng khá thường xuyên, và có lẽ người đó không phải là bà Tifton. Nếu Jane phát hiện ra đường hầm này đầu tiên, thì em cũng sẽ nhận ra rằng nó không phải là do thiên nhiên tạo thành. Em sẽ đưa ra một lý do vớ vẩn nào đó – ví dụ như đó là con đường thoát hiểm của bọn tội phạm hay những con nhím biết nói chẳng hạn – ít ra thì em cũng sẽ suy nghĩ về nó. Nhưng đây lại là Skye. Em chỉ nghĩ, mình cần có một lối để chui qua hàng rào này, và nó đây rồi. Thế là em liền chui vào.

Em chui ra ở mé bên kia khu vườn đối xứng khổng lồ, ngay phía sau bức tượng cẩm thạch hình một người đàn ông quấn quanh mình tấm ga trải giường và giơ cao một lưỡi tầm sét trên đầu. Skye thấy đặt một thứ như vậy trong khu vườn thật là lố bịch, nhưng em mừng vì có chỗ để nấp. Em nhòm ra từ phía sau người đàn ông bằng cẩm thạch – em gặp may rồi. Chỉ có một người trong tầm mắt, đang nhổ cỏ giữa những phiến đá lát đường, và đó lại là một người bạn.

- Anh Cagney! – Em gọi và chạy đến bên cạnh anh, giở mũ ra để cho anh thấy mái tóc vàng. – Là em, Skye Penderwick đây.

- Trời xanh, mắt… - Anh mở miệng, nhưng bị cắt ngang giữa chừng vì có người đang hét gọi tên anh. Người đó ở ngay gần và đang tiến lại gần hơn. - Anh nên giấu em vào đâu đó thôi. Có vẻ như bà ấy đang bực mình đấy.

- Ai cơ? – Skye hỏi, nhưng Cagney đã nhấc em lên khỏi mặt đất và đặt em vào một cái ang lớn, chạm trổ đầy dây leo và hoa.

- Cúi thấp đầu xuống và ngồi im cho đến khi bà ấy đi khỏi nhé.

Skye vội chúi xuống và ước là Cagney đã không đặt em vào cái ang có cả chục phân nước tù đọng dưới đáy, nhưng không còn thời giờ để bận tâm về chuyện ấy nữa, bởi cái người đang bực mình nọ vẫn đang tiến lại mỗi lúc một gần, và bây giờ Cagney cất tiếng gọi:

- Cháu ở đây, thưa bà Tifton!

Skye sững người – chính là bà Tifton bí ẩn! Giá mà Skye có thể nhìn thấy bà ta! Tại sao những cái ang này lại không có lỗ nhòm nhỉ?

- Vì Chúa, Cagney, cậu không nghe ta gọi hay sao? Ta đâu có thời giờ để đi tìm cậu! – Giọng nói nghe thật gay gắt và thiếu kiên nhẫn. Nó làm Skye nhớ đến cô giáo dạy em năm lớp hai, cái cô đã kết tội em là gian lận khi em làm tính chia dài dòng, vì học sinh lớp hai chỉ được làm phép cộng và trừ thôi. Đi kèm với giọng nói khó ưa là một tiếng gõ cộc cộc lên đá lát đường nghe thật đáng ghét. Hẳn bà Tifton đang đi giày cao gót. Những chiếc giày cao gót kênh kiệu.

- Vâng, thưa bà, cháu xin lỗi. Chuyện này sẽ không xảy ra nữa, - Cagney nói.

- Ta vừa mới nhận được lịch thi của Câu Lạc Bộ Làm Vườn. Ba tuần nữa, vào thứ Hai, ngài chủ khảo và toàn bộ ủy ban sẽ đến Arundel. Cậu biết là họ sẽ đánh giá vườn ở khắp Massachusett này. Ta muốn khu vườn của ta phải đoạt giải năm nay.

- Nó sẽ đoạt giải, thưa bà. Cháu xin hứa.

- Cậu vẫn còn nhiều việc cần làm lắm đấy.

- Vâng, thưa bà.

- Cậu định làm gì với mấy cái ang này? Chúng trống trơn nom đến là lố lăng.

Skye kinh hoàng nghe thấy tiếng giày cộc cộc giờ đang tiến về phía em. Em chúi xuống thấp hơn nữa và mừng thầm là ít ra em cũng có chiếc mũ rằn ri. Nó có thể nguỵ trang cho em từ bên trên, tất nhiên với điều kiện là bà Tifton mù dở. Bỗng nhiên có một tiếng “uỳnh” lớn, và Skye bị xô đi đẩy lại trong chỗ nấp của mình. Cagney đã nhảy vụt ra chắn trước bà Tifton và đụng phải chiếc ang.

- Hoa nhài ạ, - anh nói. – Thật nhiều hoa nhài màu hồng lấy từ nhà kính. Bà có muốn xem chúng bây giờ và giúp cháu chọn lấy bụi nào đẹp nhất không?

- Tất nhiên là không. Ta trả tiền cho cậu để làm gì? À Cagney này, ta muốn cậu cắt bỏ cái bụi hoa hồng trắng to tướng ở cạnh đường dành cho xe ôtô đi.

- Bụi Fimbriata ấy ạ? – Skye thấy giọng Cagney nghe giống hệt giọng bố em vào cái ngày mà Cún chén mất một cây hoa phong lan hiếm.

- Nó đã làm xước xe của bà Robinette vào buổi họp mặt lần trước của ủy ban Câu Lạc Bộ Làm Vườn. Cắt bỏ nó đi.

- Vâng, thưa bà.

Khi tiếng gót giày của bà Tifton đã dần xa, Skye thấy đủ an toàn để ngó lên. Cagney đang rầu rầu cúi xuống nhìn em. Anh nói:

- Chú anh đã trồng bụi hồng đó ba mươi năm trước. Cứ mỗi mùa đông chú ấy lại bọc nó bằng bao tải để giữ nó sống qua cái lạnh. Anh không thể cắt bỏ nó chỉ vì bà Robinette không biết lái xe, - anh nhấc em ra khỏi chiếc ang.

- Chú anh cũng làm vường ở đây à? – Skye hỏi.

- Ừ. Anh bắt đầu đến đây giúp chú ấy sau giờ học từ hồi anh còn bé hơn em cơ. Chú nghỉ hưu năm ngoái, và bà Tifton cho anh làm thay chú ấy.

Skye nhảy lên nhảy xuống để giũ hết nước bẩn ra khỏi giày, và rồi em bỗng nảy ra một ý.

- Sao anh không chuyển bụi hoa đến chỗ nhà nghỉ của bọn em? Bố em sẽ giúp anh chăm sóc nó khi cả nhà còn ở đây.

Cagney tỏ ra tươi tỉnh hơn.

- Làm thế được đấy. Bà Tifton sẽ không bao giờ biết được đâu. Và cũng không cần phải làm phiền bố em làm gì. Hàng ngày anh sẽ qua để tưới nước cho nó.

Thế rồi tiếng gọi lại vọng đến từ phía xa:

- Caagneey!

- Lại bắt đầu, - Cagney lẩm bẩm. – Em nên ra khỏi đây thôi. Anh sẽ đánh lạc hướng trước khi bà ấy nhìn thấy em.

Mặc dù Skye thích chui lại vào cái ang và do thám bà Tifton hơn, em biết Cagney nói phải. Em bắt tay anh để chào tạm biệt, và rồi, chạy lắt léo từ sau bụi cây này đến sau bụi cây nọ, em trở lại đằng sau bức tượng người đàn ông bằng cẩm thạch.

- Caagneey! – Em lại nghe thấy tiếng gọi, lần này ở gần hơn. Skye lao qua đường hầm ở hàng rào và – RẦM – đâm sầm vào ai đó và ngã nhào xuống đất, cẳng tay cẳng chân vướng cả vào nhau.

- Ui da! – Em sờ lên trán xem có chảy máu không. Nhưng chiếc mũ ngụy trang đã giảm nhẹ cú va đập nên không có hư hại gì đáng kể. Như thế cũng tốt, bởi em vẫn còn đủ sức để giết bất kỳ bà chị hay cô em nào đã gây ra tai nạn này. Em gỡ tay chân mình ra, vén tóc khỏi mắt, và nhìn xuống kẻ đang bị em đè lên nửa người.

Đó không phải là một trong số các chị em gái của em. Đó là một cậu bé trạc tuổi em với khuôn mặt đầy tàn nhang và mái tóc nâu thẳng. Mắt nhắm nghiền và da tái nhợt, cậu ta nằm im lìm như chết.

- Cậu xỉu rồi à? – Skye hốt hoảng hỏi. Em giật mũ ra khỏi đầu và dung nó để quạt cho cậu bé. Một lần, em đã thấy chàng cao bồi dùng mũ quạt cho một chàng cao bồi khác tỉnh lại trong một bộ phim. Nhưng có vẻ không có tác dụng – cậu bé vẫn không hề mở mắt. Thỉnh thoảng trong phim họ còn tát cho người ta tỉnh lại nữa, em thầm nghĩ, nhưng em vẫn ngần ngại, không muốn tát một người em vừa xô ngã. Nhưng cậu bé vẫn nằm không động cựa. Nếu phải tát cậu ta thì em phải làm thôi. Em giơ tay lên và…

Cậu bé mở mắt.

- Cảm ơn trời đất, - Skye nói. – Tớ cứ tưởng cậu chết rồi chứ.

- Chưa đâu.

- Đầu cậu có đau lắm không?

Cậu bé sờ lên trán và nhăn mặt.

- Không đau lắm.

- Tốt. Tớ sẽ đưa cậu về nhà. Nhà cậu ở đâu?

- Tớ ở…

- JEFFREY! - Lại là tiếng bà Tifton, lần này bà ta có vẻ ở rất gần.

Skye lấy tay bịt lên miệng cậu bé và thì thào:

- Suỵt, không thì rắc rối to đấy. Đấy là bà Tifton kênh kiệu, bà ấy khó chịu lắm. Nếu bà ấy mà bắt được bọn mình ở trong vườn của bà ấy thì…

Cậu bé giật tay em ra và cố ngồi dậy. Cậu ta càng tái nhợt đi, hơn cả lúc trước, tái đến nỗi em có thể đếm được từng nốt tàn nhang trên mặt cậu.

- Cậu có sao không? Trông như có vẻ cậu sắp nôn đến nơi rồi! – Em nói.

- JEFFREY! Con đâu rồi? – Tiếng bà Tifton lại vọng đến.

Và cuối cùng Skye cũng hiểu ra.

- Ôi, không.

- Xin lỗi bạn, - cậu bé nói, vẻ cực kỳ đường hoàng. – Mẹ tớ đang gọi, và bạn đang chắn đường của tớ đấy.