← Quay lại trang sách

Chương 7 ĐI MƯỢN QUẦN ÁO ĐẸP

KHI KHÔNG THẤY JEFFREY đến nhà nghỉ chiều hôm đó, Jane tưởng tượng ra rằng cậu đã dìm chết Teddy Robinette, và ngay trong lúc em và Skye đang vui vẻ đá bóng thì Jeffrey bị ném vào ngục tối. Skye bảo Jane là một đứa ngốc, nhưng chính em cũng thấy lo. Em sợ rằng bà Tifton phát hiện ra việc Jeffrey mời hai chị em vào thăm phòng của cậu và cấm Jeffrey gặp lại chúng.

Vì thế hai đứa nhẹ cả người khi Jeffrey đến vào sáng hôm sau. Mấy chị em còn đang dọn dẹp bàn ăn sáng. Rosalind rửa bát đĩa, Skye lau khô, Jane cất những chiếc đĩa và chén lên giá, còn Batty đứng trên một chiếc ghế đẩu và đặt những đồ bằng bạc vào đúng chỗ của chúng trong ngăn kéo.

- Đã xảy ra chuyện gì vậy? – Jane hỏi. – Cậu có giết được nó không?

- Mẹ cậu có giết cậu không? – Skye hỏi.

- Chẳng ai giết ai cả. Teddy vấp phải một cái cào và bị cứa vào chân, nó làm loạn lên đến nỗi mẹ tớ bắt tớ ở trong nhà với nó cả buổi chiều và xem tivi để cho cái chân ngu ngốc của nó khỏi phải vận động. Nhưng nó sẽ không quay lại nữa đâu. Tớ bảo nó là nếu nó còn quay lại, tớ sẽ mách với mẹ nó chuyện nó đã gian lận mấy bài kiểm tra toán năm ngoái như thế nào, - Jeffrey nói, - À, với cả anh Cagney sẽ treo một cái thang dây lên cái chạc cây hai cậu bị mắc kẹt, loại thang cuốn lên được ấy, để không ai ở dưới đất có thể nhìn thấy được.

- Hay quá, - Skye nói. – Giờ thì tất cả bọn mình đều có đường thoát.

- Và Jeffrey cũng có thể trốn ra bằng đường ấy nữa, - Jane nói.

- Sao tớ lại phải trốn ra chứ?

- Ôi, ai mà biết trước được đấy.

- Lau những cái cốc cho khô đi, Skye, - Rosalind nói. – Đừng có đưa thẳng cho Jane như thế.

- Lau khô thật là mất thời gian, đằng nào đến bữa trưa mình cũng dùng lại chúng cơ mà. – Skye nhìn lên vẻ chán nản.

- À, bác Churchie mời tất cả các cậu sang ăn bánh gừng đấy. Mẹ tớ lại đi vắng rồi, nếu các cậu còn ngại.

- Ai nhắc đến bánh gừng đấy nhỉ? – Ông Penderwick đi vào bếp để kiểm tra cái ngăn kéo đựng đồ dùng bằng bạc của Batty. Bé hết sức tự hào vì đã sắp xếp mọi thứ vào đúng chỗ.

- Bác Churchie làm bánh gừng ngon lắm ạ, và bác ấy mời tất cả đến ăn. Cả bác nữa, bác Penderwich, nếu bác muốn, - Jeffrey nói.

- Lại đúng chỗ nữa rồi, Batty ạ. – Ông Penderwick khen và bế Batty từ trên ghế xuống. – Cảm ơn cháu, Jeffrey, nhưng Cagney đã nhờ bác đến xem mấy cây mẫu đơn cậu ấy đang cho lai giống.

- Bọn con đi được không bố? – Jane hỏi.

- Chúng nó chưa làm cháu phát điên lên à, Jeffrey? – Ông Penderwick hỏi.

- Ồ, không đâu. Có lẽ chỉ trừ Skye ra thôi ạ, - Jeffrey nhanh nhẹn nhảy sang bên, tránh cú đấm của Skye vào cánh tay.

- Thế thì được. Vade in pace, filiae [14] .

- Tiếng Latinh đấy, - Jane nói.

- Tớ biết, - Jeffrey đáp.

Bác Churchie đang lấy bánh ra khỏi lò thì năm đứa trẻ đến nơi. Mùi bánh thơm ngon đến nỗi cả bọn quên bẵng là vừa mới ăn sáng xong.

Các cháu đây rồi! – Bác Churchie kêu lên. – Để bác ngắm các cháu nào. Đây là cô bạn cũ của bác, Jane, còn đây chắc là Rosalind phải không? Đây là Skye này. Thế còn Batty đâu, cô bé không đi cùng à?

Rosalind kéo Batty ra từ sau cánh cửa.

- Ôi trời ơi! Mỗi đứa sau lại xinh hơn đứa trước! – Bác Churchie nói.

Có tiếng gõ cửa và bác Churchie mở cửa cho bác Harry bán cà chua bước vào. Hôm nay chiếc áo của bác đỏ rực, nhưng cũng giống như chiếc màu xanh, nó cũng có chữ CÀ CHUA CỦA HARRY thêu ngang miệng túi.

- Lại cà chua đây, - bác nói, đặt một hộp cáctông to lên bàn bếp.

- Cảm ơn ông, Harry, - bác Churchie nói. – Ông lại đến đúng giờ bánh gừng rồi. Các cháu, hãy làm quen với ông già có cái mũi thính nhất bang Massachusetts đi.

- Đừng có nghe lời bà ấy. Bà ấy sẽ chết vì xấu hổ nếu không có ai đến ăn bánh gừng của bà ấy, - bác Harry nói. – Thế nào, Jeffrey, bác nghe nói cháu có cả một nhóm bạn mới đây hả? Cagney đã kể cho bác nghe chuyện về mấy cô bé chui qua hàng rào, trốn trong ang nước và mắc kẹt trên cây. Còn ông chủ trại Vangelder ở cuối phố thì nói đã trông thấy mấy đứa nhóc trêu con bò của ông ấy, nhưng chúng nó chạy mất trước kho ông ấy kịp ra đuổi.

- Ồ, không phải là bọn cháu trêu con bò đâu! – Rosalind nói, trong khi Jeffrey cố nhịn cười.

Bác Harry liếc nhìn Skye, em bèn xoay xở phô ra một vẻ mặt như thể cả đời em chưa từng sinh sự với một con bò nào.

- Ờ, cũng có thể là không phải, - bác nói. – Nhưng đúng là các cháu đã làm cả khu nhà cổ lỗ này sống lại.

- Và như thế thật là tuyệt, - bác Churchie nói, cắt những miếng bánh gừng to tướng đặt lên đĩa. - Giờ thì các cháu ngồi xuống và ăn đi.

Mấy chị em nhà Penderwich nhìn quanh, hơi choáng ngợp một chút vì căn bếp rộng và đẹp quá, một căn bếp xứng với các vị vua, như Jane sau đó miêu tả. Bên cạnh chiếc lò bình thường mà bác Churchie dùng để nướng bánh, còn có hai chiếc lò khác, to bằng lò trong tiệm ăn. Và có những bốn chiếc tủ lạnh, ba cái bồn rửa bằng thép không rỉ, hai bàn dài để chặt thịt và dễ đến hàng dặm quầy bếp. Chúng biết ngồi vào đâu ở một nơi như thế này? Nhưng rồi Jeffrey dẫn chúng đến một góc có ánh mặt trời – cũng ấm áp như chính bác Churchie vậy - ở đó có một chiếc bàn nhỏ trải khăn kẻ ô vuông và hai bên có ghế băng. Mọi người lần lượt ngồi xuống bác Churchie không chỉ thết bánh gừng mà cả kem tươi và dâu tây ăn kèm nữa.

Các cô bé nhà Penderwick chưa bao giờ được ăn món bánh gừng ngon đến thế, ngay cả Jeffrey và bác Harry, vốn đã được ăn món bánh đặc biệt của bác Churchie nhiều lần rồi, vẫn chén mỗi người hai miếng chỉ trong nháy mắt.

- Bánh ngon quá bác Churchie ạ, cảm ơn bác, - Rosalind nói, lau kem tươi dính trên mặt và áo của Batty.

- Cảm ơn cháu. Các cháu cứ đợi mà xem cái bánh sinh nhật bác định làm tuần tới, - bác Churchie nói.

- Cho ai đấy ạ? – Skye hỏi.

- Sao, cho Jeffrey, tất nhiên rồi. Cậu ấy sắp tròn mười một tuổi. Jeffrey, cháu chưa mời các bạn đến tiệc sinh nhật của cháu sao? – Bác Churchie hỏi.

Jeffrey đang ăn dở miếng bánh thứ ba và bị mắc nghẹn. Chỉ đến khi được Skye vỗ lưng thì cậu mới mở miệng nói được.

- Các bạn ấy sẽ không thích đâu, - cậu lắp bắp. – Nó là bữa tiệc trong phòng ăn lớn sang trọng, nào là nến, rồi khăn ăn bằng đăngten và bát đĩa sứ cổ, cả cái ông Dexter già ấy cũng sẽ có mặt.

- Jeffrey định nói là bạn trai của bà Tifton, ông Dupree, cũng sẽ đến dự tiệc, - bác Churchie nói.

- Ý bác là người yêu của bà ấy ạ? – Skye hỏi.

- Bà Tifton có người yêu à? – Jane hỏi.

- Thật là không thể ti… - Skye nói.

- Bữa tiệc ấy nghe đâu có tệ lắm, - Rosalind ngắt lời. – Khăn ăn bằng đăngten có phải là ngày tận thế đâu. Nếu em muốn thì bọn chị sẽ đến.

- Các cháu sẽ phải mặc váy đẹp đấy, - bác Harry tinh quái nói.

- Mẹ tớ chắc chắn sẽ muốn các cậu phải mặc quần áo đẹp.

- Mặc quần áo đẹp ấy à! – Skye bất bình. – Thật rõ vớ vẩn! Đang là mùa hè mà!

- Với lại bọn mình đâu có đem quần áo đẹp theo, - Rosalind nói. – Và không thể đòi bố mua váy mới chỉ để cho buổi tiệc.

- Thế thì các cậu không đến được rồi. Tiếc quá, - Jeffrey hí hửng nói.

- Chờ một phút. Bác có ý này, - bác Churchie nói. – Ăn nốt chỗ bánh gừng đi, các cháu, để cho ông Harry quay lại với cái xe cà chua của ông ấy. Bác cháu mình sẽ lên gác xép.

Nếu tầng dưới của Dinh thự Arundel giống như một viện bảo tàng thì gác xép của nó giống như một chiếc rương đựng châu báu vậy. Mấy chị em nhìn đâu cũng thấy đủ thứ tuyệt vời, cho đến khi chúng nhìn sang chỗ khác và trông thấy một thứ khác còn tuyệt vời hơn nữa. Hết chồng này đến chồng khác, hết hàng này đến hàng khác – nào là thảm, nào là gương, nào là khay bằng đồng và bạc, nào là bình phong vẽ tay, nào là những giá đầy sách, rồi búp bê đủ loại và đủ cỡ, tủ commốt, những chú lính chì, nôi, gậy chống và ô, xe trượt tuyết, giá vẽ, lọ hoa, những đoàn tàu đồ chơi, máy ảnh cũ, rèm cửa thêu kim tuyến, và vô số, vô số những thứ khác, nhiều đến nỗi ta có thể bị lạc mà chẳng bao giờ tìm nổi đường ra.

Trong khi mấy chị em vẫn đang kêu “a” và “ồ” thì bác Churchie gọi:

- Lại đây, Rosalind, bác cháu mình có việc để làm đấy. Jeffrey, cháu dẫn các bạn đi xem xung quanh nhé.

Bác Churchie dẫn Rosalind đi dọc một lối đi với những chiếc tử commốt ở một bên và những chiếc ghế sôfa nhồi căng phồng ở bên kia, rồi rẽ trái và đi tiếp, giữa những đồ trang trí vườn bằng cẩm thạch và hàng chồng tạp chí cao ngất ngưởng. Lại rẽ một lần nữa ở chỗ những cây đèn có chụp bằng kính màu, và hai bác cháu đến một khoảng rộng chất đầy quần áo, hàng trăm chiếc váy, hàng trăm bộ complê, áo sơmi, áo dạ hội, áo khoác, tất cả được treo thành dãy. Rosalind chưa bao giờ được nhìn thấy nhiều quần áo đến thế ở cùng một chỗ, thậm chí cả trong cửa hàng bách hóa Boston.

- Bà Tifton giữ tất cả những món đồ bà ấy đã từng mặc, - bác Churchie nói. – Cả quần áo của mẹ bà ấy, bà Framley nữa. Và tít ở phía sau kia là quần áo của bà nội bà ấy.

- Đẹp quá! – Rosalind nói, chầm chậm bước dọc một hàng váy mùa hè đầy màu sắc rực rỡ như cầu vồng.

- Cháu đi thêm hai hàng nữa mà xem những áo dạ hội của bà Framley.

Rosalind tìm thấy hàng tá váy dạ hội, những chiếc áo đã được mặc từ thời xa xưa, bằng taffeta và đăngten và xa tanh và nhung, lộng lậy không lời nào tả xiết.

- Ôi trời ơi! Bà ấy làm gì mà có nhiều váy thế ạ?

- Trước kia gia đình Framley thường tổ chức những bữa tiệc rất xa hoa. Đó là rất lâu trước khi bác đến đây – bác chỉ được thuê sau khi Jeffrey ra đời – nhưng ông Harry đã ở đây cả đời, và ông ấy kể cho bác nghe. Ông ấy thường giúp đỗ xe ôtô khi những người thuộc tầng lớp thượng lưu ở New York đến đây. Có những bữa sáng cho ba mươi người ăn trên hàng hiên và những bữa tiệc tối sang trọng, kèm theo là khiêu vũ với một ban nhạc sống. Ấy là từ hồi bà Tifton còn nhỏ kia. Bà ấy là con một, cháu biết đấy, và ra đời muộn, khi hai cụ thân sinh đã không còn hy vọng gì có con nữa. Họ tôn thờ cô con gái, cưng chiều cô bé như một nữ quận chứa vậy. – Bác Churchie đang nói với về phía Rosalind từ cách đấy mấy hàng. Nhưng giờ bác bỗng xuất hiện đằng sau những chiếc áo khoác, tay cầm một chiếc váy kẻ sọc. Bác giơ lên ướm thử cho Rosalind. – Đúng rồi, cái sắc san hô này thật hợp với cháu. Bác chỉ cần bóp vào một vài chỗ và cắt ngắn đi cho đúng mốt hơn là xong.

- Cháu không thể mặc váy của bà Tifton được! – Rosalind phản đối.

- Sao lại không nào? Bác đã bảo với bà Tifton là chúng ta sẽ mời các cháu, và bà ấy sẽ không bao giờ nhận ra những chiếc váy đâu. Ai mà nhớ nổi tất cả những thứ này chứ?

- Nhưng, bác Churchie, ngay cả như thế thì chúng cháu cũng không dám nhờ bác khâu vá đâu, mà cháu thì không biết làm.

- Cháu không cần phải băn khoăn làm gì. Bác đã không được khâu vá cho cô bé nào kể từ hồi con gái bác còn nhỏ, giờ thì nó đã lập gia đình và chuyển đến ở Boston và lại sinh toàn con trai. Bác sẽ rất vui được khâu vá cho các cháu. Này, cháu cầm lấy, trong lúc bác đi tìm thứ gì cho các em cháu.

Rosalind mang chiếc váy đến trước một tấm gương lớn dựng ở tường và ngượng ngùng ngắm mình trong gương. Em chưa bao giờ mặc một chiếc váy nào thanh lịch và người lớn như thế. Mà nó đúng là màu hợp với em. Em nhớ kỹ từng chi tiết nhỏ để còn tả lại cho Anna – váy bằng vải lanh mềnh, em cắt cao, không tay, cổ tròn, và, phần mà Rosalind thích nhất, một hàng cúc nhỏ bọc vải cài dọc suốt lưng.

- Bác Churchie ơi, bác đâu rồi? – Em cất tiếng gọi.

- Cháu đi theo hàng áo sơmi nữ ấy.

Rosalind đi qua những chiếc áo sơmi và đứng sững lại khi thấy một chiếc váy lộng lẫy màu trắng treo một mình ở cuối dãy. Qua lớp nilông bọc ngoài, em nhìn thấy hàng mét xa tanh và vải tuyn được đính đầy những hạt ngọc trai nhỏ xíu.

- Ôi, đây có phải là váy cưới của bà Tifton không ạ?

- Không đâu, là của mẹ bà ấy đấy, - bác Churchie ngó ra từ sau một dãy áo ngủ lụa. – Bác không nghĩ là bà Tifton lại có một chiếc váy cưới cầu kỳ như thế, mà nếu có thì bà ấy cũng chẳng giữ nó lại đâu. Cuộc hôn nhân của bà ấy là một Sai Lầm Tệ Hại và chỉ kéo dài chưa đầy một năm.

- Đã xảy ra chuyện gì thế ạ?

- Ờ, phải kể lui về trước một chút. Bà Framley qua đời khi cô Brenda – tức là bà Tifton bây giờ ấy – mới có mười bảy tuổi, và tướng Framley hết sức đau khổ. Ông ấy không chịu nói chuyện với ai hết, kể cả cô con gái. Không còn khách từ New York đến, không còn tiệc tùng, không còn gì nữa. Vậy là ngay khi đủ tuổi, cô Brenda chạy trốn bằng cách xin vào học một trường đại học không tên tuổi ở Boston. Cô gặp một chàng trai ở đó và hai người bí mật làm đám cưới khi cô ấy còn chưa tròn hai mươi. Bác đoán cô ấy làm thế để chống lại ông bố. Ông ấy nghiêm khắc lắm, tướng Framley ấy.

- Thế ông Tifton bây giờ ở đâu ạ?

- Tên ông ta không phải là Tifton. Tướng Framley không muốn cô Brenda giữ họ chồng sau khi ly dị, và cô Brenda – bướng bỉnh không kém gì bố - thì lại không chịu lấy lại họ Framley. Cô không muốn mọi người bàn tán việc cô có chồng hay không, vì khi ấy cô còn rất trẻ, và lại đang có mang. Vậy là họ dùng cái họ Tifton, vốn là họ thời con gái của bà mẹ tướng Framley. Bác không biết họ thật của bố Jeffrey là gì, và cũng chẳng biết hiện giờ ông ấy ở đâu. Bác nghĩ chính Jeffrey cũng không biết.

- Tội nghiệp Jeffrey.

- Ừ, - bác Churchie lôi một chiếc váy đỏ từ trên mắc xuống và giũ mạnh hòng vuốt phẳng những nếp nhăn tưởng tượng, như thể làm vậy là có thể sắp xếp lại quá khứ của Jeffrey. – Dù sao thì bố Jeffrey cũng bỏ đi trước khi cậu ấy ra đời. Có người nói cô Brenda đã chán ngấy ông chồng nên đuổi ông đi, có người lại nói là tướng Framley đã trả một khoản tiền để tống cổ đi vì ông không đáng được lấy một người họ Framley. Chỉ biết là Brenda đã quay về Arundel để sinh Jeffrey và ở lại với ông bố. Cậu bé – Jeffrey ấy mà – đã làm tướng Framley sống lại. Ông ấy yêu cậu bé lắm, gọi cậu ấy là đứa con trai ông ấy không có được. Rồi ông ấy cũng qua đời, khi Jeffrey mới lên bảy.

Bác Churchie treo chiếc váy đỏ lên và lấy ra một chiếc khác màu hoa xa cúc lam.

- Cháu thấy cái này cho Skye được không nhỉ? Hợp với màu mắt của con bé đấy.

- Đẹp lắm ạ. Nhưng bác Churchie, chuyện buồn quá.

- Đúng là buồn thật. Nhưng để bác nói với cháu chuyện này. Đã lâu lắm rồi bác mới thấy Jeffrey vui như từ khi các cháu đến đây.

- Thật ạ?

- Thật chứ.

Bộng những hàng áo sơmi bị đẩy mạnh ra và Jeffrey, Sky với Jane xuất hiện, tay cầm những chiếc cung lớn bằng gỗ và những ống đầy tên.

- Thật cái gì ạ? – Skye hỏi.

- Thật là rồi có lúc các cháu sẽ chọc thủng mắt người ta với mấy mũi tên ấy thôi, - bác Chuchie nói.

- Chúng cháu sẽ nhờ anh Cagney bọc đầu tên bằng cao su, - Jeffrey giải thích.

- Hừm, - bác Churchie lẩm bẩm.

- Chị Rosalind, chị phải ra xem những thứ ở đầu bên kia gác xép mới được, - Skye nói. – Có cả một cái canô, một bộ gậy để chơi cricket với ba cái yên ngựa.

- Và gươm nữa, chị Rosalind ạ! – Jane kêu lên. Em lôi một mũi tên trong ống ra và huơ nó lên như thể nó là một thanh kiếm – Tên vô lại kia, hãy chuẩn bị đón nhận số mệnh của mi dưới lưỡi gươm của Sarbina Starr!

- Là gươm của ông ngoại Jeffrey đấy, - bác Churchie nói. – Bác hy vọng không có đứa bào bị đứt tay đấy chứ?

- Chỉ có một tai nạn nhỏ thôi ạ. Skye, cho bác ấy xem tay của cậu đi, - Jeffrey nói.

Skye giơ ra một bàn tay với hai ngón bị gập lại.

- Hay lắm, - bác Churchie không hề tỏ ra bị ấn tượng. – Nhớ đừng để dây máu ra khắp nơi đấy nhé.

Jane đã chán những món vũ khí và đang ngắm hàng dây quần áo xung quanh em.

- Nhìn những thứ này mà xem!

- Bác Churchie đang cho bọn mình mượn váy để mặc đến dự tiệc sinh nhật Jeffrey đấy, - Rosalind nói.

- Ái chà! – Jane kêu lên, hai mắt mở to. – Cái bác đang cầm là để cho ai đấy ạ, bác Churchie?

- Bác nghĩ Skye mặc nó sẽ rất hợp.

- Vì trông nó đến là dịu dàng thùy mị, - Jeffrey chọc.

Tất nhiên là Skye không chịu mặc chiếc váy màu lam. Chỉ sau một cuộc tranh cãi kéo dài, càng rắc rối thêm vì những câu nhận xét tinh quái của Jeffrey, em mới chịu mặc váy, mà đó chỉ là bác Churchie tìm thấy một chiếc váy màu đen làm Skye nhớ đến một chiếc váy mẹ em đã từng mặc. Rồi sau đó bác Churchie và Rosalind bắt đầu đi tìm cái gì đó cho Jane. Em muốn một chiếc váy vừa bồng bềnh lãng mạn vừa mạnh mẽ bảnh bao, hai ý tưởng gần như không thể nào tìm thấy được trên cùng một chiếc váy. Thế mà bác Churchie vẫn phát hiện ra ở tít trong góc một chiéc váy bồng kểu thủy thủ bằng taffeta màu xanh và trắng. Jane rất thích nó.

- Bây giờ tất cả các cháu đứng yên nhé. – Bác Churchie nói và bắt đầu lấy số đo của mấy chị em bằng một chiếc thước vải. – Được rồi. Chỉ cần khâu hẹo một vài chỗ và thêm mấy nếp gấp là những chiếc váy này sẽ vừa như in. Và bác nghĩ là bác đã thấy mấy cái váy dài có đủ vải để may cho Batty một chiếc váy mùa hè không tay. Cô bé đâu rồi?

Jeffrey tìm thấy Batty ở giữa một đống thú đủ loại được đẽo gọt từ gỗ. Có một con voi to gần bằng Batty và một chú chuột chỉ nhỏ bằng ngón tay út của bé. Bé cũng đã vớ được một chú thỏ và đang cho nó nhảy khắp cả sàn gác xép.

- Bác Churchie định may cho em một cái váy đấy – cậu nói.

- Em không cần váy. Em chỉ thích con thỏ này thôi. Tên nó là Yaz.

- Anh sẽ cho em con thỏ nếu em chịu cho bác Churchie lấy số đo để may váy.

- Được thôi, - Batty đồng ý, và chịu để Jeffrey dẫn bé quay về chỗ các chị.

- Nửa tiếng trôi qua, mọi chuyện đều được dàn xếp ổn thỏa. Mấy chị em nhà Penderwick sẽ đến dự bữa tiệc sinh nhật do bà Tifton tổ chức và chúng sẽ mặc những bộ đồ cũ của chính bà. Kể cả những đôi giàu nữa, vì bác Churchie đã giải quyết vấn đề giày dép cho hợp với những chiếc váy bằng cách mở những cái rương lớn chất đầy giày đủ màu đủ kiểu và bảo mấy chị em chọn lấy đôi nào mình thích. Chỉ có chân của Batty là nhỏ quá nên không tìm được đôi nào vừa, nhưng tất cả đều nhất trí rằng bé đi đôi xăngđan ngày thường cũng được.

- Dù sao thì chuyện giày dép của nó cũng quan trọng gì đâu, khi mà nó vẫn cứ đeo cái đôi cánh ngu ngốc ấy? – Skye nói.

- Chúng không ngu ngốc, - Batty nói, ôm chặt con thỏ mới của bé.

- Thôi nào, - Jeffrey nói.- Bọn mình ra ngoài đá bóng đi.

Tối hôm đó Rosalind triệu tập một cuộc HMCCEP để kể cho các cô em câu chuyện buồn về người cha mà Jeffrey không biết mặt. Tất cả đều rầu rĩ và ước rằng chúng có thể làm gì đó, nhưng ngay cả Sabrina Starr cũng không nảy ra được ý tưởng gì. Tuy thế, chúng cũng nghĩ ra được hai giải pháp: Không bao giờ hỏi Jeffrey về bố cậu ấy và tặng Jeffrey những món quà sinh nhật thật tuyệt vời. Rồi bốn chị em ai về phòng nấy, và khi ngủ thiếp đi, đứa nào cũng nghĩ rằng nếu có điều gì tồi tệ hơn cả việc bố mất hoặc mẹ thì đó là có một người bố hoặc người mẹ không bao giờ thèm gặp mặt mình.