VỤ 2: TRỚ TRÊU THAY PHẦN II - 1 - Emma
Imette St. Guillen là một sinh viên giỏi của ngành tư pháp hình sự ở New York. Một ngày mùa đông năm 2006, cô đi uống với bạn bè, rồi tạm biệt họ và đi về SoHo, sau đó lại gọi điện cho một người bạn, bảo cô đang ở một quán bar. Cô không bao giờ về được đến nhà. Thi thể cô gói trong khăn trải giường hoa, được tìm thấy cách đó mười bốn dặm, trong một khu vực bỏ hoang ở Belt Parkway, Brooklyn. Tóc cô bị cắt trụi một bên, tay và chân bị trói lại bằng dây nhựa, một chiếc tất nhét vào miệng, và mặt bị bọc kín bằng băng dính. Cô đã bị hiếp, bị cướp, và bị bóp cổ.
Trên dây nhựa có vết máu, và nó không phải của nạn nhân, chứng thực ADN cho thấy nó là của Darryl Littlejohn, một tay bảo vệ đã được yêu cầu đưa cô gái trẻ say rượu này ra khỏi quán bar vào khoảng 4:00 sáng. Các nhân chứng cho biết họ đã cãi nhau trước khi ra khỏi quán.
Các sợi bông tìm thấy trong nhà của Littlejohn cũng phù hợp với những thớ vải trên băng dính trên người nạn nhân.
Littlejohn còn bị khởi tố vụ bắt cóc và tấn công một sinh viên đại học khác. Hắn đã đóng giả cảnh sát, còng tay và ném cô vào xe tải của hắn, nhưng cô đã tìm được cách trốn thoát.
Và đau lòng thay, khi Imette St. Guillen từ một sinh viên ngành tư pháp hình sự trở thành một phần giáo án của các giáo sư dạy môn phân tích pháp y ADN.
* EmmaTôi từng có bạn. Trước khi có con, lúc còn làm việc ở công ty xuất bản sách giáo khoa ở ngoại ô Boston, tôi thường đi chơi với vài biên tập viên khác sau giờ làm. Chúng tôi đi ăn sushi, hoặc xem phim. Lúc tôi gặp Henry, cố vấn kỹ thuật cho một sách giáo khoa về lập trình máy tính, bạn bè đã khuyến khích tôi mời anh ấy đi chơi, bởi có vẻ anh ấy quá ngại ngùng không dám ngỏ lời. Họ ghé vào phòng của tôi, cười đùa, hỏi xem anh ấy có phải là Siêu nhân dưới lớp vỏ Clark Kent đó không. Và khi chúng tôi kết hôn, họ làm phù dâu cho tôi.
Rồi tôi có thai, và đột nhiên những người tôi có thể liên hệ, đều đăng ký học chung lớp sinh con với tôi, tập hít thở và nói về những chỗ mua Diaper Genie rẻ nhất. Sau khi có con, ba trong số các bà mẹ đó cùng tôi lập một nhóm mẫu giáo. Chúng tôi luân phiên làm chủ nhà. Người lớn sẽ ngồi trên ghế bành và tán gẫu, còn bọn trẻ thì nằm cuộn trên nền với hàng đống đồ chơi bao quanh.
Con cái chúng tôi lớn lên và chúng không còn nằm yên một chỗ, mà bắt đầu chơi với nhau. Tất cả, trừ Jacob. Con trai của các bạn tôi cho những chiếc xe đồ chơi Matchbox chạy quanh thảm, còn Jacob thì xếp chúng thẳng hàng như duyệt binh vậy. Trong khi những đứa khác tô lem ra ngoài hình, thì Jacob vẽ những khối nhỏ tinh tế theo thang màu cầu vồng chuẩn.
Lúc đầu, tôi đã không để ý thấy bạn tôi quên xác định buổi hội tiếp theo sẽ là tại nhà của ai. Tôi đã không nắm bắt được tình hình, và đến khi tôi làm chủ nhà, thì có hai người xin kiếu vì đã có kế hoạch khác. Nhưng chiều đó, khi Jacob đang xoay tròn bánh của chiếc xe tải đồ chơi thì con gái của bạn tôi với tay lấy, nó nổi nóng và đánh con bé mạnh đến nỗi ngã va vào cạnh bàn cà phê. “Tôi không thể tiếp tục nữa,” bạn tôi ôm đứa con đang kêu khóc mà nói. “Tôi rất tiếc, Emma.”
“Nhưng đây là tai nạn! Jacob không hiểu nó đang làm gì!”
Cô ấy nhìn tôi chằm chằm. “Chị nói thật chứ?”
Kể từ đó, tôi không còn người bạn thật sự nào nữa. Bởi còn ai khác nữa để hiện diện với Jacob từng giây phút bây giờ? Tôi dành cả ngày chơi trên thảm với con, ép thằng bé tương tác, và ban đêm, tôi thức để đọc những quyển sách nghiên cứu mới nhất về chứng tự kỷ như thể tôi sẽ tìm ra được một giải pháp trong khi các chuyên gia hàng đầu đành bó tay. Cuối cùng, tôi gặp lại các bà mẹ trong nhóm năm xưa ở trường mẫu giáo của Theo. Lúc đầu họ rất hồ hởi nhưng lại bắt đầu lảng đi khi thấy anh trai của Theo. Khi họ mời chúng tôi đến nhà ăn tối, tôi chỉ biết nói về tác dụng của kem glutathione thẩm thấu với trẻ tự kỷ bởi chúng không thể sản sinh đủ chất này để hấp thụ và loại bỏ độc tố khỏi cơ thể…
Thế là tôi cô lập. Gắn chặt vào một chủ đề cá biệt. Không thể liên kết xã hội.
Jacob bị chẩn đoán mắc chứng Asperger, nhưng có lẽ tôi cũng không khác gì.
Lúc tôi xuống cầu thang vào lúc bảy giờ sáng, Jacob đã ngồi ở bàn bếp, đã tắm và ăn mặc chỉnh tề. Vào ngày Chủ Nhật, một thiếu niên bình thường sẽ ngủ đến tận trưa, trong đó chắc chắn có Theo, nhưng Jacob đâu có bình thường. Lệ thường thức dậy đúng giờ đi học, đã át đi chuyện hôm nay là cuối tuần và chẳng có việc gì gấp gáp phải làm. Ngay cả những ngày bão tuyết và trường học đóng cửa, Jacob vẫn ăn mặc chỉnh tề thay vì chui lại vào giường.
Nó đang chăm chú vào tờ báo Chủ Nhật. “Con đọc báo từ lúc nào thế?” Tôi hỏi.
“Kiểu người mẹ nào lại không muốn con mình biết về các sự kiện đang diễn ra chứ?”
“À, mẹ không bị mắc lừa đâu. Để mẹ đoán xem, con đang tìm phiếu giảm giá để mua keo Krazy phải không?” Jacob cần nó như nước vậy, nó là một phần trong quy trình dùng để tìm dấu vân tay. Và nó thường dự phần trong những vụ thất lạc đồ đạc, như chìa khóa xe của tôi, hay bàn chải của Theo đột nhiên biến mất rồi sau đó xuất hiện dưới bể cá mà Jacob thường dùng để xông khói tìm dấu vân tay.
Tôi cân đủ cà phê vào máy pha, để biết mình còn là con người, rồi sau đó bắt đầu làm bữa sáng cho Jacob. Đây đúng là một thách thức, bởi nó không ăn gluten lẫn casein. Thế nghĩa là khẩu phần của nó không có lúa mỳ, yến mạch, mạch đen, lúa mạch và bơ sữa. Bởi chưa có cách nào điều trị chứng Asperger, nên chúng tôi cố gắng trị các triệu chứng. Và không rõ vì sao, nhưng nếu tôi điều chỉnh chế độ ăn, hành vi của Jacob sẽ khá hơn. Khi nó không chịu ăn đúng như thế, chẳng hạn như trong lễ Giáng Sinh năm ngoái, tôi có thể thấy nó khác hẳn, dễ bị kích thích và lên cơn. Mỉa mai thật, nhưng với tỷ lệ 1% trẻ em Hoa Kỳ bị chẩn đoán mắc chứng tự kỷ, tôi cá là mình có thể làm một chương trình sao vàng trên Food Network với cái tên: Dinh dưỡng cho người Tự kỷ. Jacob chẳng hứng thú gì với nhiệt tình nấu nướng của tôi. Nó bảo tôi sẽ là kết quả pha tạp giữa Jenny Craig với Josef Mengele.
Ngoài chế độ ăn kiêng, Jacob còn ăn theo màu suốt năm ngày trong tuần. Tôi không nhớ chuyện như thế từ lúc nào, nhưng nó đã thành thông lệ. Mọi món ăn ngày thứ Hai là màu xanh lục, thứ Ba màu đỏ, thứ Tư màu vàng, và cứ thế. Cách nào đó, kiểu làm này giúp xây dựng ý thức cơ cấu cho nó. Dù vậy, các ngày cuối tuần được tự do tùy ý, nên bữa sáng hôm nay có bánh muffin gạo sắn đã rã đông, và ngũ cốc EnviroKidz Koala Crisp dùng với sữa đậu nành. Tôi chiên vài miếng thịt gà tây Applegate Farms, rồi cho ra đĩa bơ đậu Skippy và bánh mì không gluten. Tôi có tập sổ dày bảy phân đầy các nhãn hàng thực phẩm, và những số điện thoại miễn cước, chúng hệt như Kinh thánh về nấu ăn cho tôi vậy. Tôi cũng chuẩn bị nước trái cây, bởi Jacob thích pha nó với thuốc của mình, là một muỗng trà glutathione liposome và một muỗng bột vitamin C. Uống như thế vẫn có mùi như lưu huỳnh, nhưng còn khá hơn thứ trước đây tôi dùng, một loại kem Jacob xoa vào chân và phải mang tất bọc lấy bởi mùi của nó quá kinh khủng. Nhưng điểm xấu của glutathione không là gì so với điểm tốt, chất này làm thay cho Jacob việc cơ thể nó không làm được, là tập trung và đào thải độc tố, và như thế khiến tâm thần nó khá hơn.
Thức ăn chỉ là một phần bữa tiệc sáng, tôi phải gọi như vậy.
Tôi lấy những chiếc chén nhựa nhỏ xíu để đựng thuốc bổ sung cho Jacob. Mỗi ngày nó uống một viên vitamin hỗn hợp, một viên taurine, một viên omega-3. Taurine ngăn chặn những cơn bùng phát, bởi axit béo giúp ổn định tâm thần. Jacob cầm báo đọc, trong khi tôi lấy thêm hai thứ thuốc mà nó ghét nhất là oxytocin xịt mũi và ống B12 mà nó sẽ tự tiêm cho mình, cả hai đều có tác dụng làm giảm bồn chồn lo lắng.
“Con có trốn cũng không thoát,” tôi nói và kéo tờ báo xuống.
Bạn sẽ nghĩ bị tiêm là tệ nhất, nhưng Jacob đang tự nhiên kéo áo lên và bóp bụng để tự tay tiêm cho mình mà không nhăn nhó gì. Thật ra xịt mũi mới khủng khiếp, bởi với một đứa trẻ bị nhạy cảm quá mức, việc này không khác gì bị dìm nước. Ngày nào tôi cũng phải xem Jacob nhìn chằm chằm cái chai đó và cuối cùng tự thuyết phục mình là nó có thể chịu được cảm giác thứ chất lỏng đó trôi xuống cổ họng. Và ngày nào, chuyện này cũng khiến tôi đau đớn cõi lòng.
Chẳng cần phải nói, dù chúng tiêu tốn vài trăm đô một tháng nhưng bảo hiểm y tế không chi trả bất kỳ thứ nào trong những thực phẩm bổ sung này.
Tôi đặt đĩa muffin trước mặt, trong khi nó giở sang trang báo khác. “Con đánh răng chưa?”
“Dạ rồi,” Jacob rụt rè nói.
Tôi để tay dằn lên mặt báo. “Thật sao?”
Có vài lần Jacob nói dối, và tôi thấy rõ mình chỉ cần nhíu mày là nó nghe theo ngay. Vài lần duy nhất tôi từng thấy nó cố gắng nói dối, là lúc Jacob hỏi xin làm việc gì nó không thực sự muốn, chẳng hạn như uống thuốc và đánh răng. Và những lần khác nó nói dối là để tránh gây xung đột. Những lúc như thế, nó sẽ nói điều mà nó nghĩ là tôi muốn nghe. “Con sẽ đánh răng sau khi ăn,” nó hứa, và tôi biết nó sẽ làm. “Phải rồi!” đột nhiên nó reo lên. “Đây rồi!”
“Cái gì?”
Jacob cúi xuống, đọc to bài báo, “Cảnh sát ở Townsend đã tìm ra thi thể của Wade Deakins năm mươi ba tuổi, trong khu rừng dọc Đại lộ 140. Ông Deakins chết vì hạ thân nhiệt. Không có dấu hiệu mưu sát nào.” Nó cười mỉa, lắc đầu. “Mẹ có tin chuyện đó bị nhét vào trang 14A không.”
“Có,” tôi nói. “Thật khủng khiếp. Ai lại muốn đọc về một người bị chết cóng chứ?” Đột nhiên tôi ngưng bàn tay đang khuấy cà phê lại. “Làm sao con biết tin đó sẽ lên báo sáng nay?”
Nó ngập ngừng, nhận ra mình đã bị nắm thóp. “Con đoán mò mà.”
Tôi khoanh tay và nhìn thẳng vào nó. Ngay cả khi không nhìn vào tôi, nó vẫn có thể cảm nhận đôi mắt nảy lửa đó.
“Được rồi!” nó thú nhận. “Con nghe chuyện này trên đài vào tối qua.”
Tôi xem xét cách nó lắc ghế và khuôn mặt mỗi lúc một đỏ bừng thêm, hỏi tiếp. “Và?”
“Con đến đó.”
“Con làm gì?”
“Tối qua. Con lấy xe đạp…”
“Con lái xe đạp giữa trời lạnh tái tê đến Đại lộ 140…”
“Mẹ có muốn nghe hết chuyện hay không?” Jacob nói, và tôi không cắt lời nó nữa. “Cảnh sát tìm thấy một thi thể trong rừng và thám tử đang ngả về giả thuyết xâm hại tình dục và giết người…”
“Lạy Chúa tôi.”
“…nhưng bằng chứng lại không cho thấy như thế.” Nó rạng rỡ hẳn lên. “Con đã phá vụ này cho họ.”
Tôi há hốc mồm. “Và họ không có vấn đề gì với chuyện này sao?”
“thì… không. Nhưng họ cần giúp đỡ. Họ sắp đi sai hướng hoàn toàn, do những vết thương trên cơ thể…”
“Jacob, con không thể cứ thế lao vào hiện trường vụ án được! Con là một thường dân!”
“Con là thường dân với hiểu biết pháp y hơn hẳn cảnh sát trong vùng. Con còn nhường công trạng cho ông thám tử nữa.”
Tôi đang mường tượng Cảnh sát Townsend hôm nay sẽ đến nhà, để khiển trách tôi, mà thế là nhẹ nhất, và nặng nhất là bắt Jacob đi. Chẳng phải can thiệp việc điều tra của cảnh sát là việc phi pháp sao? Tôi hình dung hậu quả của chuyện này, khi mọi người đều biết Dì Em, người cố vấn bậc thầy lại không biết tối qua con mình đã ở đâu.
“Nghe mẹ này,” tôi nói. “Con tuyệt đối không được làm thế nữa. Không bao giờ. Nếu đấy là một vụ mưu sát thì sao hả Jacob? Nếu kẻ sát nhân truy đuổi con thì sao?”
Tôi nhìn xem nó cân nhắc chuyện này ra sao. “Vậy thì,” nó nói, một câu trả lời hoàn toàn theo cách hiểu nghĩa đen, “con nghĩ là con sẽ chạy thật nhanh.”
“Con nghe luật mới trong nhà đây. Chưa báo cho mẹ, con không được trốn ra khỏi nhà.”
“Nói cho đúng, thì thế không phải là trốn,” nó nói.
“Jacob, vì mẹ…”
Nó gật đầu. “Không trốn ra để đến hiện trường vụ án. Con hiểu rồi.” Rồi nó nhìn thẳng tôi, một chuyện hiếm khi xảy ra, nên tôi thấy mình gần như đang nín thở. “Nhưng, mẹ à, nói thật đấy, con mong mẹ thấy cảnh đó. Những vết trầy xước trên cẳng chân và…”
“Jacob, người đó đã chết một cách cô độc và khủng khiếp, ông xứng đáng được tôn trọng.” Nhưng ngay cả khi tôi nói thế, tôi biết nó vẫn không hiểu. Hai năm về trước, trong lễ tang bố tôi, Jacob đã hỏi xem liệu có được mở quan tài trước khi hạ huyệt hay không. Tôi cứ nghĩ nó muốn nói lời tạm biệt với người mà nó yêu quý, nhưng thay vào đó, Jacob lại đưa tay chạm vào gò má lạnh tanh trắng bệch như tờ giấy của ông ngoại nó. Con chỉ muốn biết người chết như thế nào, nó nói.
Tôi lấy tờ báo, gấp lại. “Con sẽ viết vài lời gửi cho viên thám tử ngay hôm nay, để xin lỗi vì đã xen ngang…”
“Con không biết tên ông ấy!”
“Google đi,” tôi bảo. “Và coi như con bị phạt ở nhà cho đến khi mẹ bảo thôi.”
“Phạt ở nhà? Ý mẹ là, con không được ra khỏi nhà?”
“Trừ lúc con đi học.”
Và trước sự ngạc nhiên của tôi, Jacob nhún vai. “Con nghĩ có lẽ mẹ phải gọi cho Jess rồi.” Chết thật! Tôi quên mất gia sư kỹ năng xã hội của con. Jacob gặp cô hai lần một tuần để luyện tập các kỹ năng tương tác xã hội. Jess Ogilvy là sinh viên cao học tại Đại học Vermont, với chuyên ngành dạy cho trẻ tự kỷ, và Jacob thích cô quá chừng. Nó thích cô chừng nào, thì lại sợ những việc cô bắt nó làm chừng ấy, chẳng hạn như nhìn vào mắt người thu ngân, nói chuyện thân mật với người lạ trên xe buýt, hỏi đường người trên phố. Hôm nay, hai người định sẽ đến tiệm pizzza trong vùng, để Jacob có thể thực tập nói chuyện đôi chút.
Nhưng để làm thế, tôi phải cho nó ra khỏi nhà. “Bánh muffin không mẹ?” nó hỏi với giọng vô tội, và đưa đĩa bánh qua cho tôi.
Tôi ghét những lúc nó biết là nó đúng.
Thử gặp một bà mẹ có con tự kỷ, và hỏi xem vacxin có liên quan gì đến tình trạng của nó hay không, và bà sẽ hăng hái bảo bạn là có.
Rồi thử hỏi một bà mẹ khác, bà cũng sẽ hăng hái bảo bạn là không.
Mọi chuyện vẫn còn để ngỏ. Dù cho có vài bậc bố mẹ đã kiện chính phủ, nói rằng vacxin khiến con họ bị tự kỷ, và tôi cũng đã nhận nhiều thư mời ký kiến nghị, nhưng tôi không đồng tình với họ.
Và xin đưa ra đây vài thông tin:
1. Năm 1988, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) đã khuyến cáo thay đổi lịch trình tiêm chủng ở Hoa Kỳ, thêm vào các mũi chủng ngừa viêm gan B bao gồm một mũi ngay khi mới sinh, và ba mũi chủng ngừa Hib trước khi được sáu tháng tuổi.
2. Các công ty dược đã đưa ra các mũi vacxin đa hàm lượng, được bảo quản bằng thimerosal, một chất chống vi khuẩn với 49% là ethyl thủy ngân.
3. Dù cho người ta đã xác định tác hại của nhiễm độc thủy ngân từ những năm 1940, nhưng Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm và CDC đã không xem xét tác hại của lượng thuốc mà trẻ sơ sinh đã nhiễm vì tiêm vacxin. Các công ty dược cũng không có khuyến cáo nào, dù cho chế độ tiêm chủng mới có nghĩa là một đứa trẻ hai tháng tuổi, trong một ngày đã nhiễm một lượng thủy ngân cao gấp 100 lần so với mức độ an toàn lâu dài của chính phủ quy định.
4. Triệu chứng của tự kỷ giống triệu chứng của nhiễm độc thủy ngân đến mức khủng khiếp. Để tôi cho một ví dụ: Khi các nhà khoa học nghiên cứu cho thủy ngân vào não của vật chủ, họ ghi nhận vật chủ bắt đầu tránh tiếp xúc bằng mắt.
5. Khoảng giữa năm 1999 và 2002, thimerosal được lặng lẽ loại bỏ khỏi đa số vacxin cho trẻ em.
Cũng có những tranh luận trái chiều. Họ nói rằng ethyl thủy ngân, dạng có trong vacxin, được đào thải khỏi cơ thể nhanh hơn methyl thủy ngân, một dạng độc chất. Bất chấp hầu hết vacxin hiện nay đều không còn thủy ngân, nhưng chứng tự kỷ vẫn tăng mạnh. CDC, Tổ chức Y tế Thế giới, và Viện Y học đã hoàn tất năm nghiên cứu lớn, nhưng không nghiên cứu nào chỉ ra được mối liên quan giữa vacxin và chứng tự kỷ. Những dữ kiện này rất thuyết phục, nhưng dữ kiện tiếp theo là điểm thuyết phục tôi hoàn toàn tin rằng, có một mối liên hệ nào đó giữa tự kỷ và vacxin.
1. Con trai tôi trông cũng như bất kỳ mọi đứa trẻ nào khác, cho đến khi nó được tiêm một loạt vacxin bao gồm DTaP, Hib và viêm gan B.
Tôi không nghĩ nó là kiểu quan hệ nhân quả. Xét cho cùng, trong 100 trẻ tiêm cùng một lịch trình vacxin như nhau, 99 trẻ không bao giờ bị tự kỷ. Nhưng có vẻ như tất cả chúng ta đều có dấu vết ung thư trong mã di truyền, và nếu hút hơn hai gói thuốc một ngày, bạn sẽ tăng khả năng ung thư lên cao hơn. Những đứa trẻ có bẩm tố nhất định trong mã di truyền, không thể thải loại thủy ngân dễ dàng như hầu hết các trẻ khác, và kết quả là, chúng bị tự kỷ.
Tôi không phải kiểu cha mẹ làm quá đến mức tránh hẳn chuyện tiêm chủng. Khi sinh Theo, tôi vẫn cho nó đi tiêm. Theo tôi, lợi ích của vacxin vẫn cao hơn những nguy cơ của nó.
Tôi tin tưởng vacxin. Tôi tin phải phổ biến vacxin cho tất cả mọi người.
Nhờ Jess Ogilvy mà Jacob đã đến tiệc khiêu vũ ở trường.
Nói thật, tôi chưa từng dám nghĩ nó sẽ làm được thế. Sau khi biết Jacob bị tự kỷ, nhiều khoảnh khắc mà tôi từng “tin chắc” cho con mình, giờ chỉ là “ước ao.” Như vào đại học. Có việc làm. Tìm được người yêu. Tôi nghĩ gánh nặng mơ ước của tôi giờ đã dồn cả vào vai Theo. Tôi hy vọng Jacob có thể hòa nhập trọn vẹn hơn với thế giới, nhưng với Theo, tôi hy vọng nó để lại dấu ấn trong đời.
Chính vì thế mà hồi mùa xuân năm ngoái, khi Jacob tuyên bố nó định đi Lễ hội Điệu nhảy Mùa xuân, tôi đã ngạc nhiên quá đỗi. “Đi với ai?” Tôi hỏi.
“À,” Jacob nói. “Con và Jess đã lo khá ổn chuyện đó rồi.”
Tôi có thể thấy vì sao Jess gợi ý chuyện này, bởi ở đó sẽ có chụp ảnh, khiêu vũ, trò chuyện trong bàn tiệc, tất cả những kỹ năng mà Jacob cần biết. Tôi đồng ý với Jess, nhưng cũng không muốn nhìn thấy Jacob bị tổn thương. Nếu không có ai ngỏ ý đi dự tiệc cùng nó thì sao?
Đừng nghĩ tôi là bà mẹ tồi, tôi chỉ suy nghĩ thực tế thôi. Tôi biết Jacob đẹp trai, vui tính và rất thông minh, đôi khi nó còn quay tôi như chong chóng. Nhưng thật khó để những người khác cũng nhìn nhận nó như thế. Với họ, nó chỉ là đứa lập dị.
Đêm đó, tôi đến phòng Jacob. Niềm vui khi lần đầu tiên thấy con trai phấn khích vì sắp tham gia một sự kiện tương tác xã hội, trộn lẫn với suy nghĩ về cảnh các cô gái cười vào mặt nó. “Vậy…” tôi ngồi lên cạnh giường nó, vừa nói. Tôi chờ cho nó bỏ tờ Tạp chí Khoa học Pháp y đang đọc xuống. “Tiệc khiêu vũ à?”
“Vâng,” nó nói. “Jess nghĩ đấy là ý tưởng hay.”
“Còn con thế nào? Con có nghĩ thế không?”
Jacob nhún vai. “Có lẽ vậy. Nhưng con hơi lo lắng…”
Tôi nắm ngay lấy điểm đó. “Về chuyện gì?”
“Bộ váy của người cặp với con,” Jacob nói. “Nếu nó màu cam, con không nghĩ con chịu nổi đâu.”
Tôi khẽ cười. “Tin mẹ đi. Không có cô gái nào mặc đồ màu cam đến tiệc khiêu vũ đâu.” Tôi cầm hờ một sợi chỉ trên chăn. “Con nghĩ đến cô gái nào để mời khiêu vũ chưa?”
“Chưa.”
“Chưa sao?”
“Như thế, con sẽ không phải thất vọng,” nó nói, và nói sự thật.
Tôi ngập ngừng. “Mẹ nghĩ sẽ thật tuyệt nếu con thử xem sao. Và nếu như không được…”
“Mẹ,” Jacob cắt lời, “tất nhiên là sẽ được. Có 402 cô gái trong trường của con. Cứ cho là một trong các bạn ấy thấy con có chút hấp dẫn, thì về mặt thống kê, xác suất một người trong số họ nhận lời khiêu vũ với con tùy thuộc vào con cả.”
Và nó chỉ phải ngỏ lời với 83 cô gái, để tìm được một người đồng ý đi với nó. Amanda Hillerstein, cô gái có em trai bị hội chứng Down, và có đủ lòng tử tế để quên đi chứng Asperger của Jacob, ít nhất là trong một buổi tối.
Nói tiếp chuyện này là bài học trong hai tuần về nghi thức dự tiệc. Jess cố gắng có những cuộc chuyện trò nhỏ với Jacob trong bữa ăn. (Thích hợp: Mùa hè qua, cậu có ghé thăm bạn bè không? Không thích hợp: Cậu biết có một nơi ở Tennessee tên là Nông trại Thi thể, để cậu có thể nghiên cứu cách xác chết phân hủy chứ?) Còn tôi lo cho Jacob tất cả mọi chuyện khác. Chúng tôi thực tập cách để bước lại gần một cô gái thay vì giữ khoảng cách một sải chân. Chúng tôi thực tập cách nhìn vào ống kính khi có ai đó chụp hình bạn. Chúng tôi thực tập cả việc ngỏ lời mời một cô gái nhảy, dù cho Jacob không chấp nhận những điệu nhảy chậm. Những lúc như thế, nói hỏi ngay, “Con thật sự phải chạm vào cô gái ấy sao?”
Đã kề tiệc khiêu vũ, hàng ngàn câu hỏi xoáy quanh trong đầu tôi. Jacob chưa từng mặc vest tuxedo, nếu chiếc nơ thắt chặt khiến nó bực mình và không chịu mang thì sao? Nó ghét chơi bowling, bởi không thích chuyện đặt chân vào một đôi giày mà một người khác vừa mới cởi ra. Nếu như nó không chịu mang đôi giày da thật tôi thuê cho nó, cũng vì lý do đó thì sao? Nếu ban trang trí tiệc khiêu vũ không làm theo chủ đề trầm lắng như kế hoạch, mà đổi thành tiệc nhảy disco, với đèn chớp và bóng phản chiếu, thì Jacob có bị kích động quá mức hay không? Nếu như Amanda để tóc xõa, và Jacob nhìn cô bé rồi ngay lập tức chạy lên phòng thì sao?
Nhân tiện, Amanda tử tế đã ngỏ ý lái xe đưa Jacob đi, bởi nó không biết lái. Chiếc Jeep Cherokee của cô bé đỗ ngay cửa đúng 7:00 tối. Jacob đang đợi, trên tay nó cầm sẵn một bông hoa cài cổ tay đã mua ở tiệm lúc ban chiều. Nó đứng ở cửa sổ, ngóng chờ từ lúc 6:00.
Jess mang theo một máy quay để ghi lại sự kiện này. Chúng tôi đều nín thở khi Amanda bước ra khỏi xe, trong bộ váy hồng đào.
“Mẹ bảo cô ấy sẽ không mặc đồ màu cam,” Jacob thì thầm.
“Đây là màu hồng đào,” tôi chỉnh.
“Cũng cùng họ với màu cam cả,” nó nói, vừa kịp lúc cô bé gõ cửa. Jacob mở cửa hơi mạnh. “Cậu trông thật xinh đẹp,” nó mở lời, đúng như những gì chúng tôi đã tập.
Khi tôi chụp hình cho nó ở bãi cỏ trước nhà, Jacob thậm chí còn nhìn vào ống kính. Đến tận hôm nay, đấy là tấm hình duy nhất mà nó làm được thế. Tôi phải thú nhận, tôi đã rơm rớm khi thấy nó chìa khuỷu tay ra để hộ tống bạn nhảy ra xe. Tôi còn mong một kết cục nào tốt đẹp hơn thế nữa? Còn gì hơn khi Jacob nhớ được mọi bài học mà chúng tôi đã rất cần mẫn thực tập?
Jacob mở cửa xe cho Amanda, rồi đi vòng về chỗ ngồi quen thuộc của mình.
“Ôi, không,” tôi buột miệng.
“Ta hoàn toàn quên mất chuyện này.”
Chắc chắn, Jess và tôi đã thấy Jacob trượt mình vào băng ghế sau ấm cúng của nó như thường lệ.