- 5 - Emma
Chẳng ai mơ khi lớn lên mình sẽ là một bà dì khốn khổ.
Thú thật, chúng ta đều kín đáo đọc các loạt bài tư vấn. Nhưng sàng lọc những vấn đề của người khác để kiếm sống ư? Không, cảm ơn.
Tôi từng nghĩ rằng, đến lúc này tôi sẽ là một nhà văn đích thực. Tôi sẽ có nhiều sách nằm trong danh mục của New York Times, và giới trí thức sẽ chào đón tôi bởi tài năng kết hợp những vấn đề hệ trọng vào những quyển sách mà đại chúng có thể đọc. Như nhiều ngòi bút trẻ đầy hoài bão khác, tôi sẽ đi đường vòng bằng cách làm việc biên tập. Và trong trường hợp của tôi là biên tập sách giáo khoa. Tôi thích việc biên tập. Luôn luôn có một câu trả lời đúng và một câu trả lời sai. Và tôi đã cho rằng mình sẽ trở lại làm việc khi Jacob đi học, nhưng đấy là chuyện trước khi tôi biết rằng làm người hỗ trợ cho việc học của đứa con tự kỷ là một công việc 40 tiếng một tuần. Phải thảo luận và áp dụng mọi biện pháp thích nghi cho Jacob. Chẳng hạn như khi buổi học trở nên quá căng thẳng, Jacob được phép đặc cách ra khỏi lớp. Phải có một khoảng nghỉ tùy hoàn cảnh cho nó. Còn cần một chuyên gia có thể giúp nó học viết hồi tiểu học, một kế hoạch giáo dục riêng biệt, một cố vấn ở trường không tròn mắt lên mỗi khi Jacob bị lên cơn.
Tôi đã nhận làm thêm vài việc tự do vào buổi tối. Sếp cũ đồng cảm và giới thiệu cho tôi vài người, nhưng thế vẫn không đủ chi trả trong nhà. Vậy nên khi Burlington Free Press mở cuộc thi tuyển người viết mới, tôi đã tham gia. Tôi không biết về nhiếp ảnh, cờ vua, hay làm vườn, nên tôi chọn một chủ đề mình quen thuộc, là nuôi dạy con cái. Bài báo đầu tiên của tôi đặt vấn đề rằng: vì sao dù cho đã cố gắng hết sức trong vai trò làm mẹ, chúng ta vẫn luôn cảm thấy mình chưa làm đủ?
Tòa soạn nhận được ba trăm lá thư phản hồi với bài báo đó, và đột nhiên tôi trở thành chuyên gia tư vấn về việc nuôi dạy con cái. Và cột báo này mở rộng, trở thành bài tư vấn cho cả những người không có con, những người muốn và không muốn có con. Số lượng đăng ký ngày càng tăng, và cột báo của tôi từ được đăng một lần mỗi tuần, giờ đã thành hai lần mỗi tuần. Và điều thật sự lạ thường là những con người tin tưởng nhờ cậy tôi chỉnh đốn cho cuộc đời rối rắm của họ, tất cả đều cho rằng tôi hẳn sẽ có cách khi cuộc đời mình cũng lâm vào cảnh như thế.
Hôm nay, là một câu hỏi đến từ Waren, ở Vermont.
Xin giúp tôi! Đứa con trai mười hai tuổi lễ phép tuyệt vời của tôi giờ đã biến thành con quái vật. Tôi đã cố phạt nó, nhưng chẳng ích gì. Sao nó lại hành động như vậy?
Tôi cúi xuống bàn phím và bắt đầu gõ.
Bất kỳ lúc nào một đứa trẻ cư xử xấu, luôn có một vấn đề sâu xa điều hướng cho hành động. Chắc chắn, anh có thể tước đi những đặc ân của nó, nhưng thế chỉ là dán băng cá nhân lên một vết thương hở miệng. Anh cần phải thăm dò và suy nghĩ xác định xem, thật sự điều gì đang khiến nó buồn.
Tôi đọc lại những lời mình viết, rồi xóa hết chúng đi. Tôi đang đùa ai đây?
Có lẽ là cả vùng Burlington này.
Con trai tôi đã trốn đi trong đêm, tìm đến hiện trường vụ án, và tôi có làm theo lời khuyên mình vừa nói không? Không.
Chợt chuông điện thoại reo, lôi tôi ra khỏi cơn dằn vặt giả hình. Giờ là tối thứ Hai, vừa quá tám giờ, nên tôi nghĩ hẳn là bạn của Theo gọi cho nó. Nó nhấc máy ở đường dây phụ trên lầu, và không lâu sau đã chạy vào bếp nơi tôi đang ngồi. “Điện thoại của mẹ,” Theo nói. Nó đứng đợi cho đến khi tôi nhấc máy, rồi lại biến vào phòng ngủ, nơi trú ẩn bất khả xâm phạm của nó.
“Emma xin nghe,” tôi nói.
“Cô Hunt? Tôi là Jack Thornton… giáo viên môn toán của Jacob?”
Lòng tôi bỗng dấy lên nỗi lo ngại. Có vài giáo viên thấy được điểm tốt của Jacob bất chấp kiểu cách lạ thường của nó. Và có vài giáo viên không hiểu nó, và thậm chí chẳng buồn cố gắng hiểu nó. Jack Thornton kỳ vọng Jacob sẽ là một nhà toán học. Nhưng không phải ai bị chứng Asperger cũng đều như thế, đó chỉ là một ảo tưởng theo kiểu Hollywood. Và thế là ông chán nản với đứa học trò viết chữ như gà bới, tự động đảo vị trí các con số khi làm tính, và còn lâu mới hiểu nổi vài khái niệm trừu tượng của toán học, như số ảo và ma trận.
Nếu là Jack Thornton gọi, hẳn không phải tin tốt.
“Jacob đã cho cô biết chuyện xảy ra hôm nay chưa?”
Jacob có nói gì không nhỉ? Không đâu. Nếu có thì tôi đã nhớ rồi. Nhưng mà, hẳn nó sẽ không thú nhận trừ phi bị hỏi thẳng vào vấn đề. Có vẻ tôi hẳn đã dò thấy những biểu hiện trong hành động của nó, vốn hơi thẫn thờ trong hôm nay. Thường khi Jacob thu mình hơn, hoặc theo chiều ngược lại, trở nên quá liến thoắng hay bốc đồng, là tôi biết thế nào cũng có chuyện. Xét theo điểm này, thì tôi là nhà tội phạm học giỏi hơn Jacob nghĩ nhiều.
“Tôi đã bảo Jacob lên bảng để giải bài tập về nhà,” thầy Thornton giải thích, “và khi tôi bảo bài làm của nó quá tùy tiện, nó liền đẩy tôi.”
“Đẩy thầy?”
“Phải,” thầy giáo nói. “Cô có thể hình dung phản ứng của cả lớp rồi đấy.”
À, giờ thì tôi hiểu vì sao không thấy có gì khác lạ ở Jacob. Khi cả lớp phá lên cười, Jacob cho là nó đã làm một việc tốt.
“Tôi xin lỗi,” tôi nói. “Tôi sẽ nói chuyện với con tôi.”
Tôi vừa gác máy không bao lâu thì Jacob ló mặt vào bếp và mở tủ lạnh lấy hộp sữa.
“Hôm nay, trong tiết toán, có chuyện gì không?” Tôi hỏi.
Mắt Jacob sáng lên. “Bà không thể chịu nổi sự thật đâu,” nó nói với giọng nhái lại Jack Nicholson, một biểu hiện rõ ràng là nó đang bối rối.
“Mẹ đã nói chuyện với thầy Thornton. Jacob, con không thể cứ thế mà đẩy giáo viên của mình.”
“Chính thầy ấy gây chuyện.”
“Thầy đâu có đẩy con!”
“Không có, nhưng thầy nói, ‘Jacob, đứa con ba tuổi của tôi còn viết thẳng thớm hơn thế.’ Và mẹ luôn bảo rằng khi có ai đó đem con ra làm trò cười, thì con phải chống lại.”
Đúng thật là, tôi đã bảo Jacob như thế. Và một phần trong tôi vui mừng khi nó tự khởi xướng một phản ứng với người khác, thay vì ngược lại, dù cho phản ứng đó không thích đáng về mặt xã hội.
Với Jacob, thế giới chỉ có hai màu, đen và trắng. Có lần, lúc Jacob còn nhỏ, thầy giáo môn thể dục đã gọi cho tôi bởi trong giờ học môn bóng chày đá, một cậu bạn đã ném trái bóng đỏ vào người nó, theo đúng luật chơi là thế nhưng Jacob lại nổi điên. Không được ném đồ vào người khác, Jacob khóc lóc giải thích. Đó là luật!
Tại sao một luật đúng trong tình huống này, nhưng trong tình huống khác lại không? Nếu một đứa hay bắt nạt chế giễu Jacob, và tôi bảo nó được quyền phản pháo lại, bởi đôi khi đấy là cách duy nhất để bọn chúng để cho nó yên, vậy tại sao nó không thể làm thế với một thầy giáo hạ nhục mình trước cả lớp?
“Các giáo viên xứng đáng được tôn trọng,” tôi giải thích.
“Tại sao họ tự nhiên được tôn trọng, còn mọi người khác phải cố gắng để được thế?”
Tôi nháy mắt với nó. Bởi thế giới không công bằng, tôi nghĩ thế, nhưng Jacob đã biết rõ chuyện này hơn hầu hết chúng ta rồi.
“Mẹ giận con à?” Nó hỏi xong, rồi thản nhiên với tay lấy ly và rót sữa đậu nành.
Tôi nghĩ rằng đây là tính cách mà tôi đã không nhận thấy nơi con mình, lòng cảm thông. Jacob lo là tôi bị tổn thương, lo làm tôi buồn, nhưng đấy không phải là cảm giác được nỗi đau của người khác. Những năm qua, nó học biết cảm thông cũng khó như tôi học tiếng Hi Lạp. Nó chuyển dịch một hình ảnh hay tình huống trong tâm trí của mình và cố gắng gán một cảm xúc thích hợp cho nó, nhưng chẳng bao giờ thật sự trôi chảy trong chuyện đó.
Mùa xuân năm ngoái, chúng tôi đến tiệm thuốc, và tôi để ý thấy trên giá có một lốc thiệp mừng Ngày Của Mẹ. “Mẹ chỉ muốn con mua tặng mẹ một tấm thiệp này, dù chỉ một lần thôi,” tôi nói.
“Tại sao?” Jacob hỏi.
“Để mẹ biết con yêu mẹ.”
Nó nhún vai. “Nhưng mẹ đã biết rồi mà.”
“Nhưng làm thế sẽ tuyệt hơn,” tôi nói, “khi thức dậy vào Ngày Của Mẹ, và như mọi người mẹ khác trên đất nước này, mẹ nhận được một tấm thiệp từ con trai mình.” Jacob thực sự đã suy nghĩ về chuyện dó. “Ngày Của Mẹ là gì thế?” nó hỏi.
Tôi bảo cho nó, rồi quên khuấy chuyện đó, cho đến ngày 10 tháng Năm, Ngày Của Mẹ. Khi xuống cầu thang và bắt đầu pha cà phê sáng như thường lệ, tôi thấy một phong thư gác trên bình nước thủy tinh. Trong đó là tấm thiệp Ngày Của Mẹ.
Trên tấm thiệp chẳng có dòng chữ Mẹ yêu dấu. Cũng chẳng có chữ ký. Thật sự là, trên thiệp chẳng viết gì cả, bởi Jacob chỉ làm những gì tôi bảo nó làm, không hơn.
Ngày hôm đó, tôi ngồi xuống bàn và bật cười. Tôi cười cho đến khi nước mắt bắt đầu rơi.
Còn giờ, tôi nhìn lên con trai mình lúc nó không nhìn tôi. “Không, Jacob à,” tôi nói. “Mẹ không giận con đâu.”
Có lần khi Jacob mười tuổi, chúng tôi đang rảo bước giữa gian hàng đồ chơi ở Williston, thì một cậu bé bất thần nhảy ra, mặc trên người bộ đồ hóa trang Darth Vader và vung vẩy gươm ánh sáng. “Bùm, cậu chết rồi!” cậu bé hét lên, và Jacob tin lời nó. Jacob bắt đầu hét lên, rung lắc cả người, rồi nó khua tay vào những thứ trưng bày trên giá. Nó làm thế để biết chắc mình không phải là ma, để biết chắc nó vẫn còn có thể tác động gì đó trên đời này. Nó quay vòng vòng, đập cái này cái kia, rồi giẫm lên đống đồ mà chạy đi.
Đến lúc tôi bắt kịp Jacob ở gian hàng búp bê, nó đã hoàn toàn mất tự chủ. Tôi đã cố hát bài của Bob Marley cho nó nghe. Tôi hét vào tai để nó phản ứng lại với tiếng của tôi. Nhưng Jacob đang chìm trong thế giới nhỏ bé riêng của nó, và cuối cùng cách duy nhất để tôi giúp nó dịu lại, là làm chiếc chăn người, đè nó nằm dang tay dang chân xuống nền gạch.
Đến lúc Jacob dịu lại, thì cảnh sát đã tìm đến bởi có người báo cáo về tình huống ngược đãi trẻ em.
Tôi phải mất mười lăm phút để giải thích với cảnh sát là con tôi bị tự kỷ, và tôi không cố làm đau nó, tôi chỉ cố giúp nó mà thôi.
Kể từ lúc đó, tôi thường nghĩ về những chuyện có thể xảy ra nếu như Jacob bị cảnh sát chặn lại lúc đang đi một mình, chẳng hạn vào những ngày Chủ Nhật khi nó đạp xe đến gặp Jess. Như mọi bậc cha mẹ của những đứa trẻ tự kỷ, tôi đã làm những tấm bảng thông tin nhỏ cho nó. Trong ví của Jacob là một tấm nói rằng nó bị tự kỷ, và như thế cảnh sát sẽ hiểu những hành vi của Jacob như thái độ hờ hững, không chịu nhìn vào mắt người khác, thậm chí là bỏ chạy, tất cả đều là những biểu hiện tiêu biểu của hội chứng Asperger. Và tôi đã tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu như cảnh sát đứng trước một cậu trai cao 1m8, nặng 85kg, mất tự chủ và lại đang đưa tay ra túi sau. Họ sẽ chờ nó đưa thẻ căn cước ra, hay họ sẽ bắn nó ngay?
Đây là một phần lý do vì sao tôi không cho Jacob lái xe. Nó đã ghi nhớ cẩm nang lái xe của tiểu bang từ lúc 15 tuổi, và tôi biết nó sẽ theo sát luật đi đường như thể đấy là mạng sống của nó. Nhưng nếu như một cảnh sát bang huýt nó vào thì sao? Anh có biết mình đang làm gì không? Viên cảnh sát sẽ hỏi thế, và Jacob sẽ trả lời: Lái xe! Ngay lập tức, người ta sẽ cho nó là một gã hợm đời, dù cho thật sự nó chỉ đang trả lời câu hỏi mà thôi.
Nếu viên cảnh sát hỏi xem nó có vượt đèn đỏ không, Jacob sẽ trả lời là có, dù cho chuyện đó đã xảy ra từ sáu tháng trước và chẳng có ai nhìn thấy.
Tôi biết là nếu muốn biết mặc quần nào sẽ có vẻ mập hơn, thì cứ hỏi Jacob, bởi nó luôn nói sự thật. Một viên cảnh sát sẽ không biết thế để hiểu cách Jacob đang trả lời.
Nhưng dù gì, họ cũng không huýt nó lại khi nó đang đi xe đạp vào thị trấn, trừ phi họ thấy thương nó bởi trời quá lạnh. Từ lâu rồi, tôi đã biết là không nên hỏi Jacob xem có muốn tôi chở đi không. Trong chuyện cỏn con này, với nó, nhiệt độ không quan trọng bằng sự tự lập.
Tôi đem áo quần đã giặt xong lên phòng cho Jacob, và gấp chúng đặt trên giường. Khi đi học về, nó sẽ tự cất lấy, mọi cổ áo đều xếp thẳng hàng ngay ngắn, còn quần short thì xếp theo kiểu (sọc, tuyền, chấm). Trên bàn của Jacob là một chậu cá úp ngược, bên trong là một máy làm ấm tách cà phê, một chiếc đĩa thiếc, và thỏi son môi của tôi. Tôi thở dài, nhấc cái phòng lấy vân tay nhỏ của nó lên, lấy thỏi son của tôi và cẩn thận không làm xáo trộn trật tự chính xác của những vật dụng khác.
Phòng của Jacob giống hệt như một tấm hình trong Tập san Kiến trúc, mọi thứ đều đâu vào đấy, giường phẳng phiu, những cây bút chì trên bàn được đặt xuôi hoàn hảo theo chiều thớ gỗ. Phòng của Jacob là một nơi tuyệt đối không có gì ngoài dự liệu.
Ngược lại, Theo thì bừa bãi thay phần cả anh nó. Tôi hầu như không thể tìm được đường đi qua cả chiến trường áo quần nó rải đầy trên thảm, và khi tôi lấy giỏ đồ của Theo đi giặt, bên trong còn có con gì kêu chít chít nữa. Tôi cũng không cất đồ vào tủ cho Theo, nhưng đấy là bởi tôi không chịu nổi khi thấy hộc tù bừa bãi, và áo quần tôi nhớ đã gấp từ trước cũng bị xáo tung.
Tôi liếc mắt một vòng, và thấy một chiếc cốc có thứ gì màu xanh đang lên mốc bên trong, cạnh đó là một hũ yogurt đang ăn dở. Tôi cho chúng vào giỏ đồ đã trống để chuẩn bị xuống lầu, nhưng rồi động lòng nên cố dọn dẹp chiếc giường của con cho có chút trật tự. Lúc tôi xốc lại bọc gối của Theo, thì một chiếc hộp nhựa rơi ra trúng vào đầu gối tôi.
Đấy là một trò chơi, tên là Naruto, với hình nhân vật truyện tranh đang vung vẩy thanh gươm. Trò này chơi trên Wii, máy chơi game mà nhà tôi chưa từng có.
Tôi có thể hỏi Theo xem vì sao lại có nó, nhưng linh tính bảo rằng tôi sẽ không muốn nghe câu trả lời đâu. Tôi sẽ không muốn nghe thêm khi mà dịp cuối tuần vừa qua, tôi đã biết chuyện Jacob chuồn khỏi nhà trong đêm. Tôi không muốn nghe thêm sau khi thầy dạy toán của Jacob gọi báo cho tôi về phản ứng của nó trong lớp.
Đôi khi tôi nghĩ trái tim con người cũng như một giá sách đơn giản. Bạn có thể chất đủ thứ lên nó, trước khi có thứ gì đó nằm ngoài rìa rơi xuống, và bạn phải nhặt nhạnh từng mảnh vỡ của nó.
Tôi nhìn chăm chăm đĩa trò chơi một hồi, rồi nhét nó lại vào trong gối trước khi ra khỏi phòng.