← Quay lại trang sách

- 6 - Jacob

Phòng thư giãn giác quan ở trường tôi có một xích đu móc từ trần xuống. Nó màu xanh nước biển, làm bằng dây thừng và vật liệu co giãn. Và khi bạn ngồi vào bên trong, nó ôm lấy bạn như cái kén. Bạn có thể khép kén lại, để không phải thấy bên ngoài và cũng không ai thấy được bạn, rồi quay tròn chiếc kén. Trong phòng thư giãn còn có những tấm thảm dệt đủ kiểu, chuông gió, và một chiếc quạt. Có một chiếc đèn cáp quang với hàng trăm điểm sáng biến đổi từ xanh sang tím rồi hồng. Còn có những miếng bọt biển, bóng nhím đủ màu, cọ vẽ, những cuộn bóng xốp, và những chiếc chăn nặng. Có một máy phát tiếng động, và chỉ người phụ trách mới được mở. Chúng tôi có thể yêu cầu nghe tiếng mưa rơi, tiếng màn hình trắng, hay tiếng rừng rậm. Có một tủ kính hình ống, cao khoảng ba thước, bên trong có những con cá nhựa chậm rãi bơi vòng tròn.

Như một phần trong Chương trình Giáo dục Cá biệt, tôi thường được dễ dàng cho phép rời khỏi lớp. Nếu tôi cần, thì bất kỳ lúc nào dù là trong giờ thi, thầy giáo cũng cho tôi được phép ra khỏi lớp. Đôi khi, thế giới bên ngoài quá chật hẹp bí bức, và tôi cần một nơi để thư giãn. Tôi có thể đến phòng thư giãn giác quan này, nhưng thật sự là hiếm khi tôi làm thế. Những đứa trẻ duy nhất dùng phòng này là những đứa cần chăm sóc đặc biệt, vậy nên bước qua cánh cửa đó chẳng khác nào tôi gắn lên mặt mình tấm biển to tướng nói rằng tôi không bình thường.

Vậy nên hầu như mỗi lần cần đôi chút thư giãn, tôi lại rảo bộ khắp các hành lang. Thỉnh thoảng, tôi ghé qua căng tin để lấy một chai nước khoáng vitamin. (Bạn muốn biết loại nào có mùi vị ngon nhất à? Loại Focus, với vị kiwi-dâu, có vitamin A và lutein bổ mắt. Còn tệ nhất à? Loại Essential. Nước cam có màu cam. Chắc tôi chẳng cần phải giải thích thêm làm gì.) Đôi khi tôi ghé phòng giáo viên, chơi cờ với thầy Pakeeri hoặc giúp cô thư ký Leatherwood sắp xếp thư từ. Nhưng hai ngày qua, mỗi lúc rời lớp, tôi đều đi thẳng đến phòng thư giãn.

Người phụ trách phòng này là cô Agworth, cũng là giáo viên lo cho cuộc thi Đố vui. Cứ đến 11:45 mỗi ngày, cô đều rời đi để photo giấy tờ hoặc lo bất cứ thứ gì cần dùng cho bài vở của cô trong ngày hôm đó. Cũng vì thế mà hai hôm vừa rồi, tôi tìm cách để được ra khỏi lớp vào khoảng 11:30. Thế là tôi thoát nợ môn Ngữ văn, một thứ kinh cầu trá hình. Chúng tôi đang học về quyển Flowers for Algernon, và mới tuần trước, một cô bạn đã hỏi xem liệu có thí nghiệm đang nghiên cứu nào có thể chữa lành cho những người như tôi hay không, mà tôi biết cô chỉ tò mò chứ không có ác ý gì đâu.

Hôm nay, tôi vào phòng thư giãn và đi thẳng đến đám bóng nhím. Mỗi tay cầm một trái, tôi chui vào trong chiếc xích đu rồi kéo viền khép chặt lại. “Chào Jacob,” cô Agworth hỏi. “Em cần gì không?”

“Giờ thì không,” tôi nói khẽ.

Tôi không biết tại sao những người bị Hội chứng Aspeger lại quá nhạy cảm với những thứ như thớ vải, màu sắc, âm thanh và ánh sáng. Nhiều lúc, tôi không nhìn thẳng vào mắt người ta, còn họ thì nhìn tôi mà ra vẻ không nhìn. Những lúc như thế, đôi khi tôi tự hỏi không biết mình có thật sự tồn tại hay không. Những vật dụng trong phòng này cũng có tác dụng cảm giác như trò chơi Thủy chiến vậy. Thay vì xác định tọa độ, ở đây tôi xác định một cảm giác thể lý. Mỗi lần tôi cảm nhận sức nặng của chiếc chăn trên tay mình, hay tiếng nổ bốp của tấm bong bóng dưới sức nặng cơ thể, đấy là một phát súng trúng đích. Và đến hết giờ thư giãn của mình, thay vì để con tàu chiến chìm xuống biển, tôi đã tìm thấy một cách để xác định mình trong thế giới kìm kẹp này.

Tôi nhắm mắt lại và chầm chậm xoay người trong chiếc kén khép kín tối tăm này. “Đừng để ý đến người sau tấm màn,” tôi thì thầm.

“Chuyện gì thế, Jacob?” Cô Agworth hỏi.

“Chẳng có gì,” tôi hét lên. Tôi đợi cho chiếc kén xích đu quay thêm ba vòng nữa rồi mới ra ngoài.

“Hôm nay em thế nào?” cô hỏi.

Đây có vẻ là một câu hỏi khá vô duyên, bởi hẳn tôi đã ở yên trong lớp nếu như có thể chịu được chuyện ngồi yên trong lớp như những người bình thường rồi. Nhưng khi tôi không chịu trả lời, cô cũng không gặng hỏi. Cô lại tiếp tục đọc những quyển sách tầm thường của mình và viết lại những lời ghi chú.

Con cá lớn nhất trên đời là cá mập voi, dài đến 15m.

Mỗi ngày, người ta làm ra đến 4.000.000 viên kẹo dẻo Peeps.

(Điều này khiến tôi thấy ngạc nhiên, bởi trên đời có ai lại mua hết chừng đó, nếu như không phải vào dịp Phục Sinh chứ?)

Và còn chuyện nữa, là một người trưởng thành mất khoảng 15 phút để ăn xong bữa tối.

“Em có thông tin này cho cô đây,” tôi nói. “Từ ‘mông’ được lặp lại đến 170 lần trong Kinh thánh.”

“Cảm ơn đã cho cô biết, Jacob, nhưng nó không phù hợp lắm đâu.” Cô gấp sách lại và nhìn đồng hồ. “Em nghĩ mình ở đây một mình ổn chứ, cô định đến văn phòng để photo vài thứ?”

Theo quy định, cô không được để tôi một mình. Và tôi biết là có những đứa tự kỷ khác mà cô không bao giờ dám rời mắt. Chẳng hạn như Mathilda sẽ lấy sợi dây xích đu làm thòng lọng ngay, hay như Charlie sẽ giật sập hết dãy kệ khỏi tường. Nhưng tôi thì khác, tôi an toàn hơn nhiều. “Không thành vấn đề, cô Agworth ạ,” tôi nói.

Thật ra, tôi mong thế nữa là đằng khác. Và ngay lúc cánh cửa vừa đóng lại, tôi liền lôi chiếc điện thoại ra khỏi túi. Ngay khi tôi vừa mở máy ra và bấm nút nguồn, nó sáng lên với hình những bong bóng xanh bay vòng vòng, và một tấm hình của Jess và Mark trên màn hình.

Tôi lấy ngón tay cái che mặt của Mark lại.

Hôm nay là thứ Năm, là ngày tôi được phép gọi cho cô ấy. Tôi đã phá vỡ luật, và gọi cho cô ấy hai lần trước đó. Gọi bằng chính máy này, dù cho tôi biết thế nào máy cũng sẽ bận, và tôi bị chuyển vào hộp thư thoại. Chào, đây là Jess, và bạn biết phải làm gì rồi đấy.

Tôi đã bắt đầu quên dần những cung điệu thanh thót của giọng cô.

Vậy mà hôm nay, thay vì tiếng cô, tôi lại nghe thấy một tiếng nhỏ xíu báo với tôi rằng hộp thư thoại của khách hàng đã đầy.

Tôi đã nghĩ đến chuyện này rồi. Tôi ghi nhớ số điện thoại cô đã cho tôi hồi tuần trước, số của ngôi nhà mới đó. Tôi bấm nút gọi nó, nhưng phải bấm đến lần thứ hai mới được, bởi nó là số lạ và đầu tôi không giỏi ghi nhớ con số cho lắm.

Tiếng máy trả lời tự động vang lên. Xin chào, đây là Jess ở nhà của ông bà Robertson. Họ đã đi khỏi thị trấn, nhưng bạn có thể để lại tin nhắn cho tôi.

Tôi gác máy và gọi lại lần nữa.

Xin chào, đây là Jess ở nhà của ông bà Robertson…

Tôi đợi đến khi có tiếng beep, rồi gác máy. Tôi cũng tắt nguồn điện thoại. Rồi tôi nói lời nhắn của mình, cũng những lời tôi đã nói với Jess mỗi ngày thứ Năm: Hẹn ba ngày nữa gặp lại cô.