- 9 - Rich
Trên máy trả lời điện thoại tự động ở nhà của ông bà Robertson có sáu tin nhắn. Một từ Mark Maguire, bảo Jess gọi cho anh ta khi cô về nhà. Một từ thợ giặt ủi, báo tin áo của cô đã giặt xong. Một tin nữa được xác minh là của E. Hunt nói rằng, “chào Jess, mẹ của Jacob đây. Cô gọi lại cho tôi được chứ?” Ba tin nhắn còn lại đều là tắt ngang, và cả ba đều được gọi từ số điện thoại di động đăng ký dưới tên Jess Ogilvy.
Điều này khiến tôi nghĩ rằng hoặc cô ấy đang bị giam cầm hành hạ ở đâu đó, đã cố lấy hết can đảm gọi cho bạn trai mình và không ai bắt máy, hoặc là bạn trai của cô ấy đang che đậy mọi chuyện sau khi đã vô tình giết chết cô.
Tôi dành cả ngày thứ Sáu để xác định danh tính tất cả những người có trong nhật ký điện thoại của cô. Đầu tiên, tôi gọi cho hai cô gái xuất hiện nhiều nhất trong lịch sử cuộc gọi vài tháng qua. Alicia và Cara là sinh viên cao học, như Jess vậy. Alicia tết tóc kiểu cornrrow đến tận thắt lưng, còn Cara là cô gái tóc vàng nhỏ nhắn mặc quần rằn ri và giày đính ống cao. Ngồi uống cà phê ở trung tâm sinh viên, hai cô cho tôi biết là họ đã không gặp Jess từ hôm thứ Ba.
“Cô ấy bỏ một bài kiểm tra với Dạ xoa,” Cara nói. “Không ai dám bỏ bài kiểm tra với Dạ xoa cả.”
“Quỷ Dạ xoa?” tôi há hốc miệng, hỏi.
“Giáo sư Gorgona,” cô giải thích. “Bà ấy dạy khóa chuyên đề về giáo dục đặc biệt.”
GORGONA, tôi viết lại cái tên vào sổ. “Jess có bao giờ bỏ đi vài ngày chưa?”
“Có, một lần,” Alicia nói. “Cô ấy đến Cape God nhân một dịp cuối tuần được nghỉ sớm, và không báo trước cho chúng tôi.”
“Cô ấy đi với Mark,” Cara nói thêm, và nhăn mũi.
“Tôi xem đấy là biểu hiện cô không mê Mark Maguire lắm?”
“Ai chẳng thế?” Alicia nói. “Hắn không cư xử đàng hoàng với cô ấy?”
“Ý cô là sao?”
“Nếu hắn nói nhảy, cô ấy còn không hỏi ‘Cao bao nhiêu thế?’ nữa đấy. Cô ấy vớ phải một gã tồi.”
“Chúng tôi thấy cô ấy không còn là mình, kể từ khi họ cặp kè với nhau,” Cara nói. “Mark thích giữ cô ấy cho riêng mình.”
Những bạn đời có khuynh hướng bạo hành thường như vậy, tôi nghĩ.
“Thám tử Matson?” Alicia hỏi. “Cô ấy sẽ ổn cả thôi, phải chứ?”
Một tuần trước, có lẽ Jess Ogilvy vẫn còn ngồi ở ngay chỗ này, uống cà phê với bạn bè và lo lắng về bài kiểm tra sắp đến của bà Dạ xoa.
“Tôi hy vọng thế,” tôi nói.
Người ta không tự nhiên mà mất tích. Luôn luôn có lý do, hoặc có kẻ thù mang ác cảm với mình. Luôn luôn có một chuyện gì đó ngấp nghé bên bờ vực.
Vấn đề là, Jess Ogilvy có vẻ như một vị thánh.
“Tôi ngạc nhiên khi cô ấy bỏ bài kiểm tra,” giáo sư Gorgona bảo tôi thế. Bà là một phụ nữ tóc bạc, nói giọng nghe như người ngoại quốc, và không có vẻ gì đáng sợ như lời Alicia và Cara nói về bà. “Cô ấy là sinh viên ưu tú của tôi, thật đấy. Cô ấy vừa lấy bằng cử nhân, vừa viết luận án thạc sĩ. Tốt nghiệp hạng ưu từ Đại học Bates, và làm việc với tổ chức Công nghệ cho Người Mỹ trong hai năm, trước khi quyết định lấy đó làm sự nghiệp của mình.”
“Trong lớp, có ai tỏ vẻ ghen tị vì cô ấy quá xuất sắc không?” Tôi hỏi.
“Tôi không để ý chuyện này,” bà giáo sư nói.
“Cô ấy có tâm sự với bà vấn đề cá nhân nào không?”
“Tôi không hẳn là kiểu người nồng hậu,” bà giáo sư nhăn nhó. “Chúng tôi chỉ nói chuyện như cố vấn và người được cố vấn về những vấn đề học thuật mà thôi. Về những hoạt động ngoại khóa cô ấy có tham dự trong những lĩnh vực liên quan đến giáo dục, tôi chỉ biết hai chuyện. Đó là cô ấy tổ chức Olympic Khuyết tật ở thị trấn này, và đang làm gia sư cho một cậu bé tự kỷ.” Đột nhiên, bà giáo sư cau mày. “Có ai liên hệ cậu ấy chưa? Cậu ấy sẽ có chuyện nếu như Jess không xuất hiện theo giờ hẹn đã định. Đổi lịch trình thường lệ là một chuyện vô cùng khủng khiếp với một đứa trẻ như Jacob.”
“Jacob?” Tôi lặp lại và mở điện thoại của Jess ra.
Đây là cậu bé mà mẹ cậu đã để lại tin nhắn trong máy trả lời tự động ở nhà ông giáo sư. Tên cậu bé cũng có trong thời gian biểu của Jess trong ngày cô mất tích.
“Giáo sư,” tôi hỏi, “nhân tiện, bà có biết cậu ấy sống ở đâu không?”
Jacob Hunt và gia đình sống ở một vùng khá tồi tàn so với phần còn lại của thị trấn, vùng mà bạn sẽ khó lòng tìm thấy những hình ảnh xanh ngát và những mái nhà cổ New England thường xuất hiện trên bưu thiếp của Townsend. Nhà của họ nằm không xa khu chung cư rắc rối đầy người ly thân và ly dị, và những đường ray của tuyến hỏa xa Amtrak đã đóng cửa từ lâu.
Một người phụ nữ mở cửa. Trên áo cô có một vết ố màu xanh, mái tóc đen nhánh búi hơi rối. Nhưng tôi chưa từng thấy đôi mắt nào đẹp như mắt cô. Chúng như mắt sư tử, xanh ngả vàng, nhưng cũng trông như vừa khóc xong, và ta đều biết một bầu trời gợn mây thì đẹp hơn bầu trời không có bóng mây nào. Tôi ước chừng cô khoảng 40 tuổi. Cô đang cầm một chiếc muỗng vừa múc thứ gì đó xong, vì thứ đó đang đều đều nhỏ giọt xuống nền nhà. “Tôi không muốn mua gì cả,” cô nói và chuẩn bị đóng cửa lại.
“Tôi không bán hàng,” tôi nói. “Bà đang… để nước giọt kìa.”
Cô nhìn xuống, rồi cho cái muỗng vào miệng.
Đến lúc đó tôi mới nhớ ra lý do vì sao mình đến đây. Tôi đưa phù hiệu lên. “Tôi là thám tử Rich Matson. Và bà là mẹ của Jacob?”
“Chúa ơi,” cô nói. “Tôi nghĩ là nó đã gọi điện xin lỗi anh rồi.”
“Xin lỗi?”
“Đấy không hẳn là lỗi của nó,” cô nói ngay. “Đúng ra tôi phải biết nó trốn đi hôm đó, nhưng mà sở thích này với nó cũng gần như một chứng bệnh vậy. Và nếu có cách nào để anh cho qua chuyện này, không phải hối lộ đâu, tất nhiên rồi, chỉ là một thỏa thuận… Anh thấy đấy, nếu chuyện này rùm beng lên thì sự nghiệp của tôi sẽ tiêu tan, và tôi là một bà mẹ đơn thân hầu như không…”
Cô ấy nói không dứt, và tôi chẳng hiểu cô đang nói chuyện gì nữa. Dù cho tôi có nghe được chữ đơn thân. “Tôi xin lỗi, bà Hunt…”
“Emma.”
“Vậy thì, Emma. Tôi… chẳng hiểu bà đang nói chuyện gì nữa. Tôi đến đây bởi Jess Ogilvy là gia sư của con trai bà…”
“À,” cô ấy nói, giọng đã điềm tĩnh lại. “Tôi nghe tin về Jess trên tivi. Bố mẹ cô ấy hẳn đang hoảng lắm. Có manh mối gì chưa?”
“Đấy là lý do tôi đến đây để nói chuyện với con bà.”
Mắt cô bỗng tối sầm lại. “Đừng bảo là anh nghĩ Jacob có liên quan gì đến việc cô ấy mất tích đấy chứ?”
“Không, nhưng cậu ấy là người cuối cùng cô ấy lên lịch hẹn trước khi biến mất.”
Cô khoanh tay trước ngực. “Thám tử Matson, con trai tôi bị hội chứng Asperger.”
“Được rồi.” Còn tôi bị mù màu đấy. Thích nói gì cũng được.
“Đấy là loại bệnh tự kỷ nặng. Nó vẫn chưa biết tin Jess mất tích. Gần đây, nó đang có chuyện, và tin này có thể khiến nó suy sụp.”
“Tôi có thể nói tránh về chuyện này.”
Cô nhìn tôi với cái nhìn dò xét một hồi. Rồi cô quay người đi vào nhà. Còn tôi tự hiểu thế là một lời mời rồi. “Jacob,” cô lên tiếng gọi khi chúng tôi vừa đến gian bếp.
Tôi đứng trên lối vào, chờ đợi một cậu bé con xuất hiện. Jess Ogilvy là giáo viên và giáo sư Gorgona đã nói đến một cậu bé mà cô dạy kèm. Nhưng hóa ra, đấy là một thiếu niên đô con, cao hơn cả tôi, và có lẽ khỏe hơn nữa. Đây là người mà Jess Ogilvy dạy kèm sao? Tôi nhìn chăm chăm cậu ta, cố gắng nhớ ra vì sao trông cậu ta rất quen. Và đột nhiên hình ảnh đó hiện lên, người đàn ông bị hạ thân nhiệt. Thằng nhóc này đã xác định nguyên nhân tử vong trước cả bộ phận giám định pháp y.
“Cậu?” tôi nói. “Cậu là Jacob Hunt?”
Giờ thì tôi hiểu được những lời xin lỗi lắp bắp của bà mẹ rồi. Có lẽ cô ấy nghĩ tôi đến để tuyên án phạt, hay bắt giữ thằng nhóc vì tội cản trở công vụ tại hiên trường vụ án.
“Jacob,” cô nói với giọng như chẳng có chuyện gì, “mẹ nghĩ con đã làm quen với thám tử Matson rồi.”
“Chào Jacob.” Tôi đưa tay ra. “Hân hạnh được gặp cậu.”
Cậu ta không bắt tay tôi, cũng không nhìn vào mắt tôi. “Tôi đã thấy bài báo đó,” cậu ta nói bằng một giọng đều đều như máy. “Nó bị nhét vào trang sau. Tôi muốn nói, một người chết vì hạ thân nhiệt ít nhất cũng phải được lên trang hai.” Cậu ta tiến tới một bước. “Đã có kết quả giải phẫu tử thi đầy đủ chưa? Thật thú vị khi biết liệu nồng độ cồn trong người có làm hạ điểm đóng băng của cơ thể, hay là chẳng có thay đổi gì đáng kể?”
“Này, Jake,” tôi nói.
“Jacob. Tên tôi là Jacob, không phải Jake.”
“Phải rồi, Jacob. Tôi muốn hỏi cậu vài câu được chứ?”
“Nếu là về pháp y,” cậu ta nói, giọng sinh động hẳn lên, “thì tôi vô cùng vui lòng giúp đỡ. Ông đã nghe về nghiên cứu mới đây của Đại học Purdue, về ion hóa phun điện tử không thấm chưa? Họ khám phá ra rằng mồ hôi từ lỗ chân lông trên ngón tay ăn mòn nhẹ những bề mặt kim loại, từ viên đạn cho đến mảnh bom. Nếu phun nước ion dương vào vân tay, thì giọt nước đó phân rã hóa chất trong vân tay và biến thành những khối lượng vừa đủ có thể phân tích bằng khối phổ ký. Ông có hình dung được sẽ thuận tiện đến thế nào khi ta không chỉ có được hình dạng vân tay mà còn xác định được hóa chất có trong đó? Ông không chỉ xác định được một nghi phạm có ở hiện trường vụ án hay không, mà còn có bằng chứng cho thấy hắn đã sử dụng chất nổ.”
Tôi nhìn Emma Hunt cầu cứu. “Jacob, thám tử Matson cần hỏi con chuyện khác. Con có muốn ngồi lại nói chuyện một phút hay không?”
“Một phút thôi. Bởi giờ đã gần 4:30 rồi.”
Tôi tự hỏi, không biết lúc 4:30 sẽ có chuyện gì đây? Mẹ cậu ta không có phản ứng gì với câu nói đó. Tôi thấy mình như Alice lạc vào xứ sở thần tiên, bộ phim mà Sasha thích xem cùng tôi mỗi dịp cuối tuần. Lần cuối cùng chúng tôi xem nó, tôi nhận ra rằng làm cha mẹ cũng chẳng có gì quá khác biệt, chúng tôi luôn tự phỉnh phờ, nghĩ mình biết hết, nhưng hầu như lúc nào chúng tôi cũng phải cầu nguyện mong mình đừng làm hỏng bét mọi chuyện.
“Vậy thì,” tôi nói với Jacob. “Tôi nghĩ ta nên bắt đầu ngay đi thôi.”