← Quay lại trang sách

- 14 - Rich

Tôi đang không vui.

Hôm nay là thứ Bảy, và dù cho dịp cuối tuần là thời gian tôi dành cho Sasha, nhưng tôi phải hủy việc đón con bé về, bởi chúng tôi đang có một vụ điều tra huy động toàn bộ nhân lực. Về căn bản, tôi sẽ ăn ngủ và hít thở với vụ Jess Ogilvy cho đến khi tìm được cô ấy, dù còn sống hay đã chết. Nhưng chuyện đó chẳng khiến vợ cũ của tôi mảy may động lòng trước khi tuôn ra cho tôi một bài ca chói tai suốt 15 phút về trách nhiệm nuôi dạy con cái, và về chuyện làm sao cô ấy có thể sống nổi nếu như tôi cứ để những vụ việc khẩn cấp phá đám như thế. Thật chẳng cần chỉ ra đây không phải là chuyện khẩn cấp riêng của tôi, và cũng chẳng cần phải nghỉ xem việc một cô gái mất tích liệu có quan trọng hơn việc dời buổi tối lãng mạn của cô ấy với chồng mới hay không. Tôi tự nhủ lòng rằng phải bỏ lỡ một dịp cuối tuần với Sasha cũng đáng nếu như thế nghĩa là tôi có thể cho Claude Ogilvy có thêm một dịp cuối tuần với con gái mình.

Trên đường đến nhà Jess, nơi đội điều tra hiện trường đang làm việc ngày đêm, tôi nhận được cuộc gọi từ đặc vụ FBI trong vùng. Ông đang cố gắng xác định vị trí chiếc điện thoại của Jess.

“Không nhận được tín hiệu,” tôi lặp lại lời của ông đặc vụ. “Anh nói thế nghĩa là sao?”

“Có vài nghĩa đấy,” đặc vụ giải thích. “GPS chỉ hoạt động khi điện thoại mở. Nên có thể nó đang nằm dưới đáy hồ rồi cũng nên. Hoặc có thể cô ấy đang sống khỏe và chỉ muốn xả hơi đôi chút.”

“Làm sao tôi biết khả năng nào là thật chứ?”

“Có lẽ lúc anh tìm thấy được thi thể, mọi chuyện sẽ rõ ràng thôi.” Vừa lúc đó tôi lái qua vùng nổi tiếng chuyên mất sóng ở Vermont, và thế là cuộc gọi bị gián đoạn.

Khi điện thoại tôi lại reo lên, tôi vẫn còn đang nguyền rủa FBI, cái tổ chức chỉ giỏi một chuyện mà thôi, là phá hoại một cuộc điều tra hoàn hảo của địa phương. Và vì thế, các bạn có thể hình dung tôi đã kinh ngạc thế nào khi nghe tiếng Emma Hunt ở đầu dây bên kia. Hôm qua trước lúc ra về, tôi đã gửi cô danh thiếp của mình, phòng khi thôi mà.

“Tôi hy vọng anh có thể ghé lại nhà tôi càng sớm càng tốt,” cô nói. “Jacob có chuyện cần nói với anh.”

Đội ngũ điều tra đang đợi tôi bên ngoài nhà của Jess. Tôi còn có một cậu bạn trai cáu kỉnh của cô ấy, và một thượng nghị sĩ đang nắm đầu sếp của tôi, đòi đuổi việc tôi nếu như không tìm được con gái ông ta. Nhưng tôi vẫn lấy đèn chớp ra đặt lên nóc, và quay đầu xe. “Cho tôi mười phút,” tôi nói.

Giờ tôi thấy tinh thần khá hơn rồi. Thật may khi tôi có nguyên ba tiếng trước khi nhạc hiệu CrimeBusters nổi lên. Chúng tôi ngồi trong phòng khách, Emma và Jacob ngồi chung một đi văng, còn tôi ngồi trên chiếc ghế phụ. “Nói cho thám tử mọi chuyện con đã kể cho mẹ đi, Jacob,” Emma bảo cậu con trai.

Cậu ta ngước mắt lên, như thể đang đọc một quyển sách dán dính vào trần nhà. “Hôm đó, tôi đã đến nhà cô ấy, như chuyện phải thế. Mọi thứ không ổn. Chiếc ghế đẩu trong bếp bị lật nhào, giấy tờ vung vãi trên sàn, và toàn bộ đĩa CD đều bị ném xuống thảm. Nó không ổn, không ổn.” Giọng cậu ta đều đều như máy. “Cô ấy đi rồi. Tôi đi vào, và thấy đống hỗn độn… và tôi sợ. Tôi không biết đã có chuyện gì. Tôi gọi Jess và cô ấy không trả lời, rồi tôi thấy chiếc balô và mấy thứ khác, nên tôi lấy chúng. Houston, ta đang gặp rắc rối.” Nói xong một tràng, Jacob gật đầu ra vẻ mãn nguyện. “Chuyện là thế đấy.”

“Sao cậu lại nói dối tôi về chuyện đến nhà Jess?” Tôi hỏi.

“Tôi không nói dối,” cậu ta trả lời. “Tôi đã bảo là tôi đã không học cùng cô ấy.”

“Cậu cũng không nói cho tôi biết về chuyện chiếc balô,” tôi chỉ ra vấn đề. Chiếc balô nằm ngay trên bàn, giữa hai chúng tôi.

Jacob gật đầu. “Ông đâu có hỏi.”

Khốn thật, tôi nghĩ. Vừa lúc đó, Emma nói chen vào, “Một đứa trẻ mắc hội chứng Asperger như Jacob sẽ theo sát câu chữ vô cùng.”

“Vậy nếu tôi hỏi thẳng cậu ta, thì cậu ta sẽ trả lời thẳng?”

“Cậu ta,” Jacob bực mình xen vào, “đang ngồi trong tầm vừa đủ nghe thấy đấy.”

Tôi suýt bật cười. “Xin lỗi,” tôi quay qua nó nói tiếp. “Làm sao cậu vào được nhà của Jess?”

“Cô ấy thường để mở cửa phòng ký túc xá cho tôi, và khi tôi đến nhà cô ấy, cửa cũng được để mở sẵn. Nên tôi vào bên trong ngồi đợi.”

“Cậu đã thấy gì khi vào trong nhà?”

“Gian bếp bừa bộn. Ghế đẩu đổ nhào, và thư rơi vãi trên sàn.”

“Còn Jess thì sao? Cô ấy có đó không?”

“Không. Tôi đã gọi cô ấy, và không có tiếng trả lời.”

“Cậu đã làm gì?”

Cậu ta nhún vai. “Tôi dọn dẹp.”

Tôi giật nảy mình. “Cậu… dọn dẹp.”

“Đúng là thế.”

Tâm trí tôi rối bời vì mọi chứng cứ đều tiêu tan chỉ bởi những khuynh hướng ám ảnh đến cưỡng bức của Jacob Hunt. “Cậu biết rõ về chuyện giữ nguyên chứng cứ ở hiện trường vụ án, vậy sao cậu lại hủy hoại nó đi chứ hả?”

Ngay lúc đó, Emma giận dữ xen vào. “Con trai tôi đang giúp đỡ anh đấy, thám tử. Chúng tôi không buộc phải gọi và cung cấp thông tin cho anh.”

Tôi nén lại cơn buồn bực. “Vậy cậu đã dọn dẹp đống bừa bộn ở tầng dưới?”

“Phải,” Jacob nói. “Tôi đặt ghế lại ngay ngắn, và xếp lại chồng thư đặt trên bàn bếp.” Rồi tôi lấy hết đĩa CD bị rơi vãi và xếp chúng theo thứ tự ABC.”

“Thứ tự ABC,” tôi lặp lại lời cậu ta, nhớ ngay đến cuộc gọi của Mark Maguire, và giả thuyết của tôi về một tên bắt cóc chi li tiểu tiết. “Cậu đùa tôi đấy à.”

“Phòng nó cũng như thế đấy,” Emma nói. “Jacob rất để tâm đến việc mọi thứ phải nằm đúng nơi đúng chỗ. Với nó, đấy kiểu như một thứ lịch trình không gian vậy.”

“Vậy cậu lấy chiếc balô lúc nào?”

“Sau khi dọn dẹp xong.”

Chiếc balô vẫn còn nguyên nhãn mác, đúng như lời Maguire nói. “Cậu có phiền nếu tôi lấy nó để điều tra không?”

Đột nhiên, mặt Jacob sáng lên. “Ông phải lấy nó. Ông phải giám định ADN trên dây đeo và ông có thể giám định acid phosphate chiếc quần lót bên trong. Nói thật, sẽ rất có ích nếu phun Luminol lên mọi thứ có trong đó. Và ông có thể lấy dấu vân tay trên tấm thiệp bên trong balô bằng ninhydrin, nhưng ông sẽ muốn so sánh chúng với vân tay của mẹ tôi, bởi bà đã cầm nó lên khi mới phát hiện ra nó. Và nhân tiện tôi vừa nhớ ra, ông có thể xem qua nó nếu ông muốn. Tôi có găng tay cao su latex trong phòng tôi trên lầu. Ông không dị ứng với latex đấy chứ?” Nói đến đấy, cậu ta đã đi nửa đường ra khỏi phòng, rồi ngoái lại hỏi. “Ta có túi đựng hàng trong nhà phải không? Có cái đó thám tử Matson mới có thể đưa thứ này về phòng giám định.”

Nói xong, Jacob chạy ngay lên lầu, và tôi quay qua hỏi Emma. “Cậu ta luôn như thế sao?”

“Đôi khi còn hơn thế.” Cô ngước lên nhìn tôi. “Những chuyện Jacob nói có giúp được gì không?”

“Đều là chuyện đáng xem xét,” tôi nói.

“Mọi thứ thay đổi nếu như có dấu hiệu vật lộn,” cô thay tôi chỉ ra vấn đề.

Tôi nhíu mày. “Bà cũng là một chuyên viên điều tra hiện trường ẩn mình nữa à?”

“Không, dù cho Jacob đã cố hết sức để dạy tôi.” Cô đưa mắt nhìn ra cửa sổ. “Tôi đang nghĩ về mẹ của Jess,” cô nói. “Lần cuối cùng nói chuyện với con gái mình, không biết bà ấy có nói những chuyện ngu ngốc không nữa. Anh biết mà. Không biết họ có cãi nhau về chuyện Jess không bao giờ gọi về nhà, hay chuyện cô ấy quên gửi thiệp cảm ơn dì của mình?” Emma nhìn thẳng tôi. “Lúc trước, tôi thường nói Mẹ yêu con mỗi lúc ru con tôi đi ngủ. Nhưng giờ, chúng đi ngủ muộn hơn tôi.”

“Bố tôi từng nói rằng sống trong hối hận cũng như lái xe mà chỉ sang số lùi.” Tôi mỉm cười yếu ớt. “Vài năm trước, ông ấy bị trụy tim. Trước đó, tôi thường làm ngơ cuộc gọi của ông ấy, bởi không có thời gian để nói về những chuyện kiểu như đội Sox có vào được vòng cuối hay không. Nhưng sau đó, tôi bắt đầu gọi cho ông. Lần nào trước khi gác máy, tôi cũng đều nói Con yêu bố. Chúng tôi đều hiểu lý do, và nó không bao giờ bù đắp nổi những lần tôi đã không nói thế. Nó như thể bà đang cố tát cạn nước biển bằng chiếc muỗng trà vậy. Bố tôi đã qua đời, tám tháng trước rồi.”

“Tôi rất tiếc.”

Tôi cười gượng. “Và tôi không hiểu vì sao tôi lại kể với bà những chuyện này.”

Vừa lúc đó, Jacob lại xuất hiện, cầm trên tay một bộ găng tay cao su. Tôi mang chúng vào và cầm chiếc balô lên thì điện thoại reo. “Rich nghe,” tôi nhấc máy.

Một trung sĩ ở sở gọi hỏi xem bao lâu nữa tôi sẽ đến.

“Tôi phải đi đây.” Tôi cầm chiếc túi lên.

Jacob hí hửng, “Tôi hứng thú muốn được biết kết quả giám định lắm, tự nhiên thôi mà.”

“Tự nhiên thôi mà,” tôi lặp lại, dù cho không có ý hưởng ứng với thằng nhóc. “Hôm nay CrimeBusters chiếu tập nào thế?”

“Tập 67. Tập có một bà bị chặt tay chân nằm trong xe đẩy hàng bên ngoài siêu thị.”

“Tôi nhớ tập đó. Nhớ để mắt đến…”

“…giám đốc siêu thị,” Jacob nói thay lời tôi. “Tôi cũng xem tập đó rồi.”

Cậu ta đưa tôi ra cửa, Emma theo sau.

“Cảm ơn Jacob. Và Emma?” Tôi đợi cho đến khi cô ngước mắt lên, rồi nói tiếp. “Bà hãy nói câu đó với chúng khi thức chúng dậy vào ban sáng đi.”

Khi tôi đến nhà Jess Ogilvy, hai cảnh sát điều tra hiện trường đã xem xét căn nhà, và giờ đang đứng ngoài trời lạnh cóng, chăm chú nhìn một ô cửa kính bị cắt.

“Không có vân tay à?” Tôi nói, hơi thở đông đá trong tiết lạnh.

Nhưng tôi đã biết câu trả lời rồi. Jacob cũng thế. Khả năng có dấu vân tay trong khung nhiệt độ thế này là quá thấp.

“Không,” điều tra viên thứ nhất nói. Marcy là một quả bom chực phát nổ, với chỉ số IQ 155, và là một cô bạn gái có thể hạ tôi đo ván. “Nhưng chúng tôi tìm thấy cửa sổ này bị nạy lên để phá khóa, và một tuốc nơ vít nằm trong bụi.”

“Được đấy. Vậy vấn đề là, đây có phải một vụ đột nhập? Hay cửa sổ này bị cắt để chúng ta nghĩ thế?”

Basil, điều tra viên thứ hai, lắc đầu. “Bên trong chẳng có dấu hiệu đột nhập nào cả.”

“Phải, nhưng không hẳn là thế. Tôi vừa mới thẩm vấn một nhân chứng, cậu ta nói khác, và chính cậu ta đã… dọn dẹp.”

Marcy nhìn qua Basil. “Vậy thì đó là nghi can, không phải nhân chứng.”

“Không. Nó là một đứa trẻ tự kỷ. Chuyện dài lắm.” Tôi nhìn rìa mặt kính cửa sổ. “Hắn đã dùng loại dao gì thế?”

“Có lẽ là một con dao làm bếp. Chúng tôi có nhiều thứ phải đưa về phòng giám định để xem có cái nào có dấu vết kim loại của dao hay không?”

“Bên trong anh tìm thấy dấu vân tay nào không?”

“Có, trong phòng tắm và trên máy tính, thêm vài vân tay không trọn vẹn ở bếp nữa.”

Nhưng trong vụ này, dấu vân tay của Mark Maguire không phải là bằng chứng, bởi anh ta đã thừa nhận mình sống chung với Jess rồi.

“Chúng tôi cũng tìm được một dấu giày không trọn vẹn,” Basil nói. “Thời tiết tồi tệ chừng nào với dấu vân tay, thì lại hoàn hảo để lưu lại dấu chân trên ngưỡng cửa chừng ấy.” Phía dưới đoạn máng xối nhô ra, tôi có thể thấy những vết sáp bột Basil đã phun để lấy mẫu. Anh ta phải may lắm mới tìm được một bờ tường đã được che chắn kỹ, bởi từ hôm thứ Ba đến nay, tuyết đã phủ một lớp mới lên tất cả mọi thứ. Đây là dấu giày bốt, có một ngôi sao ở giữa, và bao quanh là thứ gì trông như đường rìa của la bàn. Khi Basil chụp ảnh nó xong, chúng tôi có thể nhập nó vào cơ sở dữ liệu để xem đây là loại giày gì.

Có tiếng xe rít trên đường rẽ vào đây, rồi tiếng đóng cửa xe. Và tôi lại nghe tiếng ai đó đang giẫm trên tuyết tiến về phía nhà này. “Nếu là phóng viên,” tôi nói với Marcy, “cứ chụp hình trước đi.”

Nhưng đấy không phải phóng viên. Mà là Mark Maguire, với nét mặt trông như thể chưa ngủ chút nào từ lần cuối tôi gặp anh ta. “Vừa đúng lúc ông đang lởn vởn ở đây để tìm bạn gái tôi đấy,” anh ta hét lên, và dù còn cách cả mét, tôi vẫn ngửi thấy mùi rượu trong hơi thở anh ta.

“Anh Maguire,” tôi nói, và chậm rãi tiến lại gần anh ta. “Anh có biết là cửa sổ luôn luôn bị cắt một góc thế này hay không?”

Tôi chăm chú theo dõi phản ứng của anh ta. Nhưng sự thật dù cho có gom đủ mọi chứng cứ mình muốn để tố cáo Mark Maguire, tôi cũng chẳng có gì đủ để ra lệnh bắt anh ta, trừ phi tìm được một thi thể.

Anh ta liếc mắt nhìn cửa sổ, nhưng bị chói nắng mặt trời, và cả ánh phản chiếu từ lớp tuyết trên đất. Khi anh ta tiến lại gần hơn để nhìn, Basil đứng ngay sau anh ta và phun một lớp bột sáp lên dấu giày anh ta vừa để lại.

Từ khoảng cách này tôi vẫn có thể nhìn ra ngôi sao, và chùm tia la bàn.

“Anh Maguire,” tôi nói, “chúng tôi phải tịch thu đôi giày của anh.”