- 15 - Jacob
Lần đầu tiên tôi thấy người chết là trong tang lễ ông ngoại tôi.
Trong nghi thức an táng, linh mục xướng to những câu Kinh thánh, dù cho ông tôi không thường đến nhà thờ và cũng chẳng nhận mình có đạo. Linh mục dứt lời thì những người lạ đứng lên và nói về ông tôi. Họ gọi ông là Joseph và kể về những câu chuyện cuộc đời ông, những chuyện mà tôi chưa nghe bao giờ. Họ nói về thời gian binh nghiệp của ông trong Chiến tranh Triều Tiên, thời thơ ấu của ông ở Lower East Side, New York, chuyện ông tán tỉnh bà tôi ở lễ hội hóa trang trường trung học, và cả một nụ hôn trong bốt điện thoại. Tất cả những lời này như những chiếc kim châm vào tôi, và tôi không thể nào gạt chúng đi, cho đến khi nào tôi có thể thấy được người ông mà tôi từng biết và luôn ghi nhớ, thay vì nhân vật mạo nhận mà họ đang nói đến này.
Mẹ tôi không khóc đến mức rũ người. Tôi chỉ biết mô tả như thế, bởi sự thật là nước mắt đã trở nên chuyện quá đỗi bình thường với mẹ tôi, như thể thấy gương mặt mẹ điềm nhiên không nước mắt mới là chuyện lạ lùng vậy.
Các bạn cũng cần biết rằng không phải lúc nào tôi cũng hiểu ngôn ngữ cơ thể. Đấy là chuyện khá bình thường với những người mang hội chứng Asperger. Nếu bạn bảo tôi nhìn một người đang cười với đôi môi mím chặt, co mình lại và hai tay ôm lấy nhau, và mong tôi hiểu cảm giác của bà ấy, thì tôi xin nói đấy là chuyện vô ích, cũng hệt như lúc bạn mong một người điếc nghe được tiếng bạn vậy. Và điều này có nghĩa là khi tôi ngỏ ý muốn mở quan tài ông tôi ra, bạn không thể đổ lỗi cho tôi là không nhận ra việc này sẽ khiến mẹ tôi buồn hơn nữa.
Tôi chỉ muốn xem thi thể bên trong có còn là ông mình, hay là một ông nào đó mà mấy người kia đang nói đến, hay thậm chí là một cái gì đó rất khác. Tôi luôn thấy hoài nghi về những chuyện ánh sáng đường hầm lúc hấp hối, và cả cuộc sống đời sau nữa, nên đây là cách hợp lý nhất để tôi kiểm tra những lý thuyết của mình.
Qua chuyện này tôi đã học được rằng: Người chết không phải thiên thần cũng chẳng phải ma quỷ. Đấy chỉ là một tình trạng sụp đổ về mặt thể lý, một sự biến đổi của mọi nguyên tử carbon đang tạo nên ngôi nhà tạm thời cho cơ thể, để chúng có thể trở về tình trạng nguyên sơ nhất của mình.
Tôi không thật sự hiểu vì sao người ta sợ chết đến thế, bởi đây là vòng tròn tự nhiên nhất trên đời mà.
Thi thể trong quan tài trông vẫn giống ông tôi. Nhưng khi tôi sờ chiếc cằm nhiều nếp nhăn của ông, làn da đó không còn có cảm giác như làn da người nữa. Nó lạnh lẽo và hơi cứng đờ, như bánh pudding để quá lâu trong tủ lạnh và lớp vỏ bánh trở nên khô cứng.
Có lẽ tôi không hiểu được cảm xúc là gì, nhưng tôi có thể thấy mặc cảm tội lỗi vì mình không hiểu được chuyện đó. Vậy nên khi tìm được mẹ, nhiều giờ sau khi mẹ thấy tôi chọc chọc cái-từng-là-cằm-của-ông và òa khóc, tôi cố giải thích lý do vì sao mẹ tôi không nên khóc làm gì. “Ông ấy không phải ông ngoại đâu,” tôi bảo mẹ thế. “Con đã kiểm tra rồi.”
Ngạc nhiên thay, tôi nói thế mà mẹ chẳng nguôi ngoai chút nào. “Thế không có nghĩa mẹ bớt nhớ ông hơn,” mẹ tôi nói thế.
Lý luận thuần túy sẽ nói rằng nếu thực thể trong quan tài về căn bản không phải là người mà bạn từng biết, thì bạn không thể nhớ người đó được. Bởi đấy không phải là sự mất mát, mà là sự thay đổi.
Mẹ tôi vẫn lắc đầu. “Mẹ nhớ chuyện này, Jacob à. Mẹ nhớ sự thật là mẹ sẽ không bao giờ được nghe tiếng ông con nữa. Sự thật là mẹ không còn được nói chuyện với ông nữa.”
Không hẳn là thế. Chúng tôi vẫn có tiếng của ông trong những băng video gia đình, thỉnh thoảng nếu mất ngủ, tôi thường lấy chúng ra để xem đấy. Và điều mẹ tôi khó lòng chấp nhận, không phải là chuyện mẹ không thể nói chuyện với ông nữa, mà là chuyện ông tôi không thể đáp lại.
Mẹ tôi thở dài. “Rồi một ngày con sẽ hiểu. Mẹ hy vọng thế.”
Đúng là thế, giờ tôi hiểu rồi. Khi có người chết, cũng như khi bạn rụng mất một chiếc răng. Bạn vẫn có thể nhai, có thể ăn, bạn vẫn còn nhiều răng khác, nhưng chiếc lưỡi của bạn cứ tìm đến lỗ hổng đó, nơi những dây thần kinh vẫn còn đau buốt.
Tôi đi tìm gặp Jess.
Tôi đã trễ hẹn rồi. Lúc này là 3:00 sáng, và là ngày thứ Hai, không phải Chủ Nhật. Nhưng ngoài giờ này chẳng còn lúc nào khác để tôi đi, bởi mẹ đang theo dõi tôi sát sao. Và dù mẹ sẽ lập luận rằng làm thế này là tôi phá vỡ luật nhà, nhưng nói cho chính xác thì không phải thế. Tôi đâu có lẻn đi để tìm đến hiện trường vụ án. Hiện trường vụ án cách nơi tôi đến cũng phải 300m.
Tôi mang trên vai chiếc ba lô đựng đầy đồ dùng, và đạp xe lướt nhanh trên mặt đường lát đá. Thật dễ dàng hơn nhiều so với lúc đi bộ, và càng nhẹ nhàng hơn nữa khi không phải vác thêm một ai khác.
Ngay sau sân của ngôi nhà mà Jess ở là một cánh rừng nhỏ. Và sau cánh rừng là đường 115. Đường này chạy qua cây cầu bắc ngang đường thoát nước của cánh rừng trong mùa xuân, tiết băng tan. Tôi để ý thấy những chuyện này lúc đi xe buýt từ trường đến nhà mới của Jess.
Trong đầu tôi đầy bản đồ, từ những biểu đồ xã hội (Người ta cau mày à → Người ta cứ cố cắt lời à → Người ta lùi lại à = Người ta đang nóng lòng chấm dứt cuộc chuyện trò này) cho đến những mạng lưới tương đối, như một kiểu Google Earth về quan hệ nhân sinh vậy (Có một đứa hỏi tôi, “Mày chơi bóng chày à? Vị trí nào thế? Bên ngoài sân hả?” rồi cả lớp ngoác miệng cười. Nhưng nó chỉ là một con người trong số 6,792 tỷ người trên hành tinh này. Và hành tinh này chỉ là 1/8 của hệ mặt trời, trong khi mặt trời chỉ là một trong hai triệu tinh cầu trong thiên hà. Nghĩ như thế, thì lời nó vừa nói chẳng còn gì quan trọng nữa.)
Nhưng đầu tôi cũng hoạt động theo cả địa lý và địa hình học, nên lúc nào tôi cũng có thể xác định vị trí của mình (bồn tắm đứng này nằm ở tầng trên của ngôi nhà ở số 132 đường Birdseye, Townsend, Vermont, Hoa Kỳ, Bắc Mỹ, Bán cầu Bắc, Trái đất). Vậy nên, hôm thứ Ba khi đến nhà Jess, tôi hoàn toàn hiểu nơi này có liên kết thế nào với mọi nơi khác tôi từng đặt chân đến.
Jess vẫn hệt như năm ngày trước, khi tôi đưa cô đến đây. Cô ngả lưng vào bức tường đá lạnh cóng.
Tôi để xe ở cuối ống nước, rồi ngồi xổm rọi đèn pin vào mặt Jess.
Jess chết rồi.
Khi tôi đưa ngón tay sờ vào má cô, nó lạnh ngắt như cẩm thạch. Điều này nhắc tôi nhớ một chuyện, và tôi mở ba lô lôi chiếc chăn ra. Thật ngớ ngẩn, tôi biết thế, nhưng để một đóa hoa trên mộ cũng vậy thôi, mà làm như tôi còn có lý hơn. Tôi quấn chăn quanh vai Jess, và kéo chăn che kín bàn chân cho cô.
Rồi tôi ngồi xuống cạnh cô. Tôi đeo găng tay cao su latex vào rồi cầm tay Jess một lát trước khi lấy sổ ghi chép ra. Trong đó, tôi bắt đầu ghi lại chứng cứ thể lý.
Những vết thâm dưới mắt cô.
Chiếc răng bị gãy.
Những vết thâm trên cẳng tay cô ấy, và tất nhiên là chúng ẩn sau lớp áo len cô đang mang rồi.
Những vết trầy xước ở lưng dưới của cô ấy cũng ẩn sau chiếc áo len đó.
Nói thật, tôi hơi thất vọng. Tôi cứ nghĩ cảnh sát sẽ dò được những manh mối tôi để lại. Nhưng họ vẫn chưa tìm ra Jess, nên tôi phải đi thêm bước nữa.
Điện thoại cô ấy vẫn còn nằm trong túi tôi. Đi đâu tôi cũng mang nó theo, dù cho từ đó đến giờ tôi chỉ mở nó lên năm lần mà thôi. Thám tử Matson hẳn sẽ yêu cầu cung cấp nhật ký cuộc gọi của chiếc điện thoại này, và họ sẽ thấy những lần tôi gọi đến nhà Jess để nghe tiếng cô ấy trên máy trả lời tự động, nhưng thế nào họ cũng sẽ nghĩ là chính Jess đã gọi những cuộc đó.
Có lẽ thám tử cũng đang cố xác định vị trí của cô bằng GPS, thứ mà hầu như điện thoại hiện đại nào cũng có, và FBI có thể dùng một chương trình máy tính dò ra vị trí của một điện thoại đang hoạt động với sai số chỉ vài bước. Thứ này được đưa vào những chương trình phản ứng khẩn cấp, nói cụ thể là, các cuộc gọi 911. Ngay khi nhận cuộc gọi, máy sẽ bắt đầu dò tìm vị trí, phòng khi cần cử cảnh sát hay xe cứu thương đến hiện trường.
Tôi quyết định làm mọi chuyện dễ dàng hơn cho họ. Tôi lại ngồi xuống cạnh Jess, vai chúng tôi chạm nhau. “Cô là người bạn thân nhất tôi từng có,” tôi bảo cô ấy. “Tôi ước giá chuyện này chưa từng xảy ra.”
Tất nhiên, Jess chẳng trả lời. Tôi không thể nói được là liệu cô ấy không còn tồn tại nữa, hay chỉ là cơ thể còn đây nhưng những thứ làm nên Jess đã biến đi đâu mất. Và thế là tôi lại nghĩ đến cơn bùng phát của mình, nghĩ đến căn phòng không cửa sổ không cửa chính, nghĩ đến vùng quê nơi chẳng ai nói chuyện, nghĩ đến cây đàn tuyền phím đen. Có lẽ đây là lý do vì sao các bài hát tang lễ luôn viết theo cung thứ, đi về phía bên kia cuộc sống cũng chẳng khác gì mang chứng Asperger cả.
Nếu được ở lại mà xem, thì quá đỗi lý thú. Tôi chẳng mong muốn gì hơn là được chứng kiến cảnh sát tập hợp lại để giải cứu Jess. Nhưng như thế thì quá mạo hiểm, nên tôi biết mình phải lên xe đạp và nằm bình yên trên giường trước khi ánh trời hoặc mẹ thức tôi dậy chào ngày mới.
Nhưng trước hết, tôi phải bật nguồn chiếc điện thoại Motorola của Jess lên. Có lẽ tôi nên đọc gì đó, một bài tôn vinh hay lời cầu nguyện cũng được. “Ngoài Trái đất, gọi về nhà,” tôi nói lại một câu thoại nổi tiếng, rồi bấm 911 và đặt máy xuống tảng đá bên cạnh Jess.
Qua loa ngoài, tôi có thể nghe thấy tiếng của cô tổng đài. Bạn có chuyện khẩn cấp gì vậy? Alô? Có ai đó không?
Tôi đi qua được nửa cánh rừng, thì thấy ánh đèn chớp xa xa trên Đường 115. Và trên quãng đường còn lại về nhà, tôi cười một mình suốt.