VỤ 4: MẸ CỦA MỌI CƠN ĐAU ĐẦU PHẦN IV - 1-Rich
Có thứ Stella Nickell mê: cá miền nhiệt đới. Bà mơ một ngày nào đó sẽ mở cửa hàng riêng của mình.
Có thứ mà Stella Nickell không mê: chồng mình. Và năm 1986, bà đã đầu độc ông ta bằng cách nhồi cyanide vào những viên thuốc đau đầu Excedrin, hòng lấy được tiền bảo hiểm.
Trước đó, bà đã tìm cách đầu độc Bruce Nickell bằng chất độc của cây độc cần và mao địa hoàng, nhưng chúng chẳng có tác dụng gì. Nên bà đã cho thuốc độc vào những viên thuốc đau đầu Excedrin. Để che giấu hành vi của mình, bà cũng đặt vài lọ thuốc Excedrin có chứa cyanide ở vài hiệu thuốc khác nhau, khiến cho Sue Snow thiệt mạng, khi mua phải một trong những lọ thuốc này. Các nhà sản xuất dược phẩm liền cho công bố số hiệu của mẻ thuốc đó để cảnh báo người tiêu dùng. Vừa lúc này, Stella Nickell đến báo cho nhà chức trách là bà có hai lọ thuốc bị nhiễm độc, mua từ hai cửa hàng khác nhau, chuyện này thật khó tin, bởi trong hàng ngàn lọ thuốc đã được kiểm nghiệm trong vùng, chỉ năm lọ có thuốc bị nhiễm độc mà thôi. Vậy sao Stella lại có đến hai lọ như thế trong tay chứ?
Khi kiểm tra những viên Excedrin, phòng giám định của FBI tìm thấy một manh mối quan trọng, đó là những tinh thể màu xanh trộn lẫn với cyanide. Hóa ra chúng là Algae Destroyer, một sản phẩm dùng trong bể cá. Stella Nickell có một bể cá lớn và đã mua Algae Destroyer tại một cửa hàng địa phương. Theo cảnh sát thì Stella đã trộn vài viên algae cho chú cá yêu trong một chiếc bát, rồi lại dùng chính chiếc bát đó để trộn cyanide. Sau đó, cô con gái đã từ mặt bà, tìm đến cảnh sát và làm chứng rằng mẹ mình đã lên kế hoạch giết Bruce Nickell trong nhiều năm trời.
Và đấy là câu chuyện về bà mẹ của mọi cơn đau đầu.
RichĐôi khi, tôi đến quá trễ.
Năm ngoái, mới chỉ một ngày sau Giáng Sinh, cô bé Gracie Cheever 13 tuổi đã không bao giờ còn ra khỏi nhà nữa. Người ta tìm thấy cô bé treo cổ trên giá tủ áo quần. Khi tôi đến nơi cùng các cảnh sát điều tra hiện trường, điều đầu tiên tôi để ý thấy là phòng của Gracie quá bừa bộn, những chiếc bát ăn ngũ cốc chất cả chồng, giấy tờ và áo quần bẩn vứt bừa bãi trên sàn, chẳng một ai bảo đứa bé này dọn dẹp cả. Tôi xem qua những tờ báo trong phòng cô bé, và nhận ra cô bé ghét cuộc đời và chính bản thân mình. Gracie ghét khuôn mặt của mình và nghĩ mình béo ú, cô bé viết ra mọi thứ mình đã ăn và mọi lần bỏ qua chế độ ăn kiêng. Và đến một trang: Tôi nhớ mẹ. Tôi đã hỏi một cảnh sát đi tuần là bà mẹ đã chết rồi à, và anh ta lắc đầu. “Bà ấy trong bếp.”
Gracie có một người em. Một cô em gái bị hội chứng Down, và mẹ cô bé dành hết thời gian cho cô em tội nghiệp. Bà ở nhà dạy học, tập vật lý trị liệu cho cô bé. Và trong khi bà mẹ đang bận rộn làm một vị thánh, thì bố của Gracie lạm dụng cô bé.
Tôi đưa nhật ký của Gracie về đồn, và sao lại hai bản. Tập nhật ký dính đầy máu, bởi cô bé vừa viết vừa cắt tay mình. Một bản tôi giao cho phòng giám định pháp y. Bản kia tôi đưa cho sếp. Phải có người trong nhà này biết chuyện gì đang diễn ra, tôi bảo ông.
Sau đám tang của Gracie, tôi gọi cho mẹ cô bé và ngỏ ý muốn gặp bà. Chúng tôi ngồi trong phòng khách, trước ánh lửa lò sưởi lập lòe. Tôi đưa bà một bản sao của quyển nhật ký, và nói rằng tôi đã đánh dấu những trang bà cần phải đọc. Bà nhìn tôi chăm chăm với đôi mắt rướm lệ, và bảo rằng gia đình đang bắt đầu lại một cuộc sống mới. Bà cảm ơn tôi, và trước mắt tôi, bà ném quyển nhật ký vào lò sưởi.
Tôi nghĩ về bé Gracie Cheever lúc đang thận trọng đi quanh ống cống nơi tìm được thi thể của Jess Ogilvy. Cô được quấn chăn, áo quần trên người vẫn đầy đủ. Trên áo quần và làn da cô, sương giá phủ một lớp long lanh lạ. Wayne Nussbaum tháo đôi găng tay cao su ông vừa dùng để giám định thi thể, và bảo các trợ lý đợi nhân viên điều tra hiện trường đến chụp hình cho xong, rồi mới đưa thi thể về bệnh viện để mổ tử thi.
“Nhìn qua ông thấy được gì rồi?” Tôi hỏi.
“Cô ấy chết lâu rồi. Nhiều ngày, tôi nghĩ thế, dù không dễ để xác định. Thời tiết lạnh thế này cũng như một nhà xác di động vậy.” Ông nhét đôi tay trần vào túi áo. “Tôi không nghĩ cô ấy bị giết ở đây. Những vết xước trên lưng cô ấy trông như thể cô đã bị kéo lê đi sau khi chết.” Suy nghĩ một lát, rồi Wayne hỏi tôi, “Các anh có tìm thấy cái răng nào không?”
“Tại sao?”
“Bởi cô ấy mất một cái răng.”
Tôi ghi nhớ chuyện này để bảo các điều tra viên tìm kiếm nó. “Bị đấm rụng răng? Hay là bị kẻ giết người nhổ đi để làm vật kỷ niệm?”
Ông lắc đầu. “Rich, anh biết tôi không thích đoán mò vào lúc 4:00 sáng như thế này. Tôi sẽ gửi báo cáo cho anh sau.”
Trong lúc Wayne quay người đi, ánh đèn flash của một cảnh sát điều tra hiện trường thắp sáng màn đêm.
Ngay lúc đó, chúng tôi ai cũng trông như ma.
Mark Maguire nuốt nước bọt khi nhìn thấy chiếc balô vừa được phòng giám định gửi lại. “Đấy là balô dì cô ấy tặng,” anh ta lúng búng.
Mark choáng váng không thốt nên lời. Lúc 7:00 sáng, cảnh sát đã đến căn hộ của anh ta. Anh ta không chỉ được cho biết tin bạn gái mình đã chết, mà chỉ vài giây sau, Mark bị bắt vì tội giết người. Còn giờ, trong phiên thẩm vấn, anh ta vẫn mặc bộ áo quần đi ngủ tối qua, quần thụng và một áo thun Đại học Vermont. Anh ta cứ rùng mình suốt trong căn phòng gió lùa này, nhưng thế chỉ khiến tôi nghĩ đến làn da tái xám của Jess Ogilvy.
Tôi đã xác định mọi chuyện trong đầu. Theo tôi nghĩ, Mark đã cãi nhau với Jess, đánh cô ấy, đánh đến gãy răng và vô tình giết chết cô ấy. Hoảng sợ, anh ta dọn dẹp hiện trường và cố che đậy tội ác bằng cách tạo hiện trường giả một vụ bắt cóc, là tấm kính bị cắt, giá đĩa lật nhào, và chiếc ghế đẩu trong bếp, thùng thư, và chiếc balô đầy áo quần của Jess.
Tôi lấy áo quần ra khỏi balô, hầu hết đều có kích cỡ quá lớn so với thân hình mỏng manh của Jess. “Một tội phạm thông minh muốn để lại dấu vết giả, ít ra cũng nên tìm những áo quần thực sự vừa với người cô ấy,” tôi đăm chiêu nói. “Nhưng mà Mark, anh không thông minh, phải không?”
“Tôi đã bảo anh rồi, tôi chẳng có liên quan gì đến…”
“Anh đã đánh gãy răng cô ấy khi hai người cãi nhau?” Tôi hỏi. “Đấy là cách một gã như anh giải quyết vấn đề? Bằng cách đánh bạn gái mình?”
“Tôi không đánh cô ấy…”
“Mark, anh không thoát được đâu. Chúng tôi đã tìm ra thi thể cô ấy, và có những vết thâm tím rõ như ban ngày, trên tay và cổ cô ấy. Anh nghĩ chúng tôi phải mất bao lâu để tìm bằng chứng cho thấy chúng là do tay anh hả?”
Anh ta co rúm lại. “Tôi đã bảo rồi… chúng tôi cãi nhau, và tôi nắm tay cô ấy. Tôi đẩy cô ấy sấp mặt vào tường. Tôi muốn… Tôi muốn dạy cho cô ấy một bài học.”
“Và bài học này đi hơi xa, phải không?”
“Không đời nào tôi giết cô ấy. Tôi thề có Chúa.”
“Sao anh lại đưa thi thể cô ấy vào rừng?”
Anh ta ngước lên nhìn tôi nài van. “Làm ơn. Ông phải tin tôi.”
Tôi chồm người lên, nhìn thẳng xuống anh ta. “Tôi không cần phải tin bất kỳ điều gì anh nói, đồ nhãi con. Anh đã nói dối tôi một lần về chuyện hai người cãi nhau vào dịp cuối tuần, trong khi thật sự anh đã đánh cô ấy hôm thứ Ba nữa. Tôi đã tìm thấy dấu giày của anh bên ngoài ô cửa sổ bị cắt, dấu vân tay của anh trên cổ cô ấy, và cả một cô gái đã chết được tắm rửa sạch sẽ rồi chuyển đi. Anh cứ hỏi bất kỳ bồi thẩm đoàn nào trên đất nước này, thì sẽ biết có rất nhiều kẻ đã giết bạn gái mình và muốn che đậy chuyện đó.”
“Tôi chưa từng cắt kính cửa sổ đó. Tôi không biết ai đã làm. Và tôi không đánh cô ấy. Tôi nổi điên, và tôi đẩy cô ấy… rồi bỏ đi.”
“Phải. Rồi anh quay lại, và giết cô ấy.”
Có nước mắt trên mặt Mark. Tôi không biết anh ta thật sự hối tiếc về cái chết của Jess Ogilvy, hay chỉ thương thân vì đã bị bắt. “Không,” anh ta nói, giọng chắc nịch. “Không, tôi yêu cô ấy.”
“Anh đã khóc nhiều như thế này khi lau chùi máu của cô ấy trong phòng tắm sao? Còn khi anh lau máu loang đầy mặt cô ấy thì sao?”
“Tôi muốn nhìn thấy cô ấy,” Mark nài xin. “Cho tôi nhìn mặt Jess.”
“Đáng ra anh nên nghĩ thế trước khi giết cô ấy,” tôi nói.
Khi tôi quay đi, định để Mark gặm nhấm tội lỗi của mình thêm vài phút nữa trước khi tôi quay lại để bắt anh ta thú tội, thì tôi thấy Mark lấy hai tay che mặt. Vừa lúc đó tôi nhận ra, đôi tay của Mark hoàn toàn không bị thương chỗ nào, không vết thâm, không vết xước, những thứ chắc chắn phải có khi bạn đánh ai đó mạnh đến nỗi gãy cả răng.