VỤ 5: BÁC SĨ XẤU TÍNH PHẦN V - 1- Rich
Kay Sybers đã 58 tuổi, và bà không khỏe mạnh dù xét theo bất kỳ tiêu chuẩn nào. Bà hút thuốc lâu năm, bị thừa cân. Nhưng bà lại không có dấu hiệu bệnh lý nào cho đến một đêm vào năm 1991, sau khi dùng bữa tối với sườn non và rượu Chardonnay, bà bị khó thở và bắt đầu thấy đau nhói ở vùng cẳng tay trái. Đây là những dấu hiệu điển hình của một cơn trụy tim, và Bill, chồng bà, đã nhận ra. Xét cho cùng, ông là một bác sĩ gốc Florida, đồng thời cũng là nhân viên điều tra của quận. Thay vì gọi xe cứu thương đưa bà đến phòng cấp cứu, ông lại cố gắng chích máu ở tay bà. Ông muốn xét nghiệm vài thứ lúc đi làm, ông bảo thế. Nhưng vài giờ sau, Kay đã chết. Kết luận là bà đã chết vì nghẽn động mạch vành, Bill Sybers không chấp nhận cho mổ xác khám nghiệm.
Một ngày sau, khi có tin báo nặc danh về hành vi khả nghi, cảnh sát đã lên lịch mổ xác Kay Sybers để khám nghiệm. Báo cáo độc chất không nói lên được gì, và Kay được đưa đi mai táng. Nhưng những hoài nghi lại dấy lên khi có tin đồn là Bill Sybers đang ngoại tình với một kỹ thuật viên đồng nghiệp. Người ta lại quật thi thể của Kay lên, và nhà xét nghiệm độc chất pháp y Kevin Ballard đã sàng lọc tìm kiếm succinylcholine, một dược chất làm tăng bài tiết kali và gây tê liệt các cơ, bao gồm cơ hoành của tim. Ông tìm thấy trong các mô chất succinylmonocholine, một phụ phẩm của succinylcholine, và đó là bằng chứng cho thấy trong cơ thể Kay có chất độc.
Mỉa mai thay, dù cho Bill Sybers đã vội vã chôn thi thể vợ mình và giấu nhẹm chứng cứ, nhưng tiến trình liệm xác lại giúp duy trì chất succinylmonocholine và càng khiến nó dễ bị tìm thấy.
* RichTôi vừa tuyên bố bắt giam Jacob Hunt, thì mẹ cậu ta sụp đổ hoàn toàn. Emma khóc ròng và bắt đầu hét lên ngay khi tôi đặt tay lên vai Jacob để đưa cậu ta đến phòng lấy dấu vân tay và chụp ảnh. Nhưng cậu ta phản ứng như thể tôi vừa đâm một nhát kiếm vậy. Jacob vung tay vào tôi. Và anh chàng luật sư chắc chắn đã bắt đầu suy nghĩ làm cách nào để giúp thân chủ của mình khỏi bị cáo buộc hành hung một cảnh sát đây.
“Jacob!” mẹ cậu ta kêu lên, rồi nắm lấy tay tôi. “Đừng chạm vào nó. Nó không thích bị người khác chạm vào.”
Tôi nhìn xuống chỗ cậu ta vừa đánh tôi. “Ừ, tôi thì không thích bị người ta đánh,” tôi lầm bầm rồi vặn tay Jacob về phía sau và còng lại. “Tôi cần phải chuẩn bị vài giấy tờ cho con trai bà. Rồi chúng tôi sẽ đưa cậu ta đến tòa để khởi tố.”
“Nó không thể chịu nổi tất cả những chuyện này đâu,” Emma phân bua. “Ít nhất hãy cho tôi đi cùng nó, để nó biết là mọi chuyện sẽ ổn cả…”
“Không được,” tôi gạt phắt.
“Anh không thể thẩm vấn một người điếc nếu không có thông ngôn!”
“Với lòng tôn trọng hết mực, thưa bà, con trai bà đâu bị điếc,” tôi nói ngay. Emma trừng trừng nhìn thẳng vào tôi. “Nếu bà không ra về, tôi sẽ bắt cả bà nữa đấy.”
“Emma,” tay luật sư nói khẽ, níu lấy tay cô.
“Thả tôi ra,” cô vừa nói vừa đẩy anh ta. Cô bước tới đứa con trai tù tội của mình, nhưng một cảnh sát đã chặn cô lại.
“Đưa họ ra khỏi đây,” tôi ra lệnh rồi bắt đầu lôi Jacob ra hành lang để đến phòng chụp ảnh.
Tình thế hiện giờ hệt như tôi đang đấu vật với một con bò mộng ở băng sau xe vậy. “Nghe này,” tôi nói, “cậu chỉ cần thả lỏng thôi.” Nhưng cậu ta vẫn cứ ghì lại lúc tôi đưa cậu ta vào căn phòng hẹp đó. Ở đây có máy lấy vân tay, cả máy ảnh để chụp hình mà tôi đang tưởng tượng nó sẽ vỡ tan tành thế nào khi Jacob lên cơn điên. “Đứng ở đây,” tôi chỉ cho cậu ta vạch trắng trên sàn. “Nhìn vào máy ảnh.”
Jacob ngước mặt lên và nhắm mắt lại.
“Mở mắt ra,” tôi nói.
Cậu ta mở mắt ra, và ngước lên trần nhà. Sau một phút, tôi cũng chụp được tấm hình thẻ, rồi đến các tấm hình để cho vào hồ sơ.
Lúc quay sang phải, cậu ta để ý thấy cái máy lấy vân tay và bỗng trở nên rất điềm tĩnh. “Đấy là máy hiệu LiveScan à?” Jacob nói khẽ, những lời mạch lạc đầu tiên của cậu ta kể từ khi tôi tuyên lệnh bắt.
“Phải.” Tôi đứng bên dàn máy và đột nhiên nhận ra có một cách dễ hơn nhiều để làm xong đống thủ tục này với Jacob. “Cậu muốn xem nó hoạt động thế nào không?”
Hệt như một công tắc vừa bật lên, và cơn lốc điên cuồng mang tên Jacob bỗng biến thành một đứa trẻ hiếu kỳ. Cậu ta tiến tới một bước. “Chúng xuất ra tập tin số phải không?”
“Phải.” Tôi gõ tên của Jacob trên bàn phím. “Tên đệm của cậu viết tắt là gì thế?”
“T”
“Là ngày sinh à?”
“Ngày 21 tháng 12 năm 1991,” cậu ta nói.
“Cậu có tình cờ biết mã số phúc lợi xã hội của mình…”
Jacob tuôn ra một dãy số, và nhìn qua vai tôi xem thử mục tiếp theo phải khai là gì. “Cân nặng: 85kg,” Jacob nói, giọng càng hăng hái hơn. “Nghề nghiệp: Học sinh. Nơi sinh: Burlington, Vermont.”
Tôi với tay lấy lọ kem Corn Huskers mà chúng tôi thường dùng để bảo đảm lớp da đủ ẩm và lấy được hết mọi thớ vân tay, rồi bỗng nhận ra hai tay Jacob vẫn còn đang bị còng sau lưng. “Tôi muốn cho cậu thấy chiếc máy này vận hành thế nào,” tôi nói một cách chậm rãi, “nhưng tôi không thể làm thế nếu tay cậu vẫn bị còng.”
“Phải. Tôi hiểu,” Jacob nói, nhưng mắt vẫn nhìn chăm chăm vào máy LiveScan, và tôi thoáng nghĩ nếu tôi bảo cậu ta phải đổi lấy một cánh tay để được xem chiếc máy đó hoạt động, thế nào cậu ta cũng háo hức đồng ý. Tôi mở còng và xoa kem lên mấy vân tay cậu ta, rồi cầm lấy bàn tay phải của cậu ta cho vào máy.
“Trước hết, ta lấy hình ngón cái chụp thẳng,” tôi vừa nói vừa ấn ngón tay Jacob xuống. “Rồi đến các ngón khác.” Bốn ngón của mỗi bàn tay Jacob ấn xuống mặt kính cùng một lúc. “Một khi máy tính nhận những hình ảnh này, sẽ xuất ra những hình ảnh tương đồng. Cậu lăn ngón tay đi,” tôi nói và giúp cậu ta làm với ngón đầu tiên, rồi nhìn cậu ta tự làm với các ngón khác.
Khi máy tính từ chối một dấu vân tay lăn tròn, Jacob nhíu mày. “Phi thường thật,” cậu ta nói. “Nó sẽ không nhận một dấu vân tay xấu?”
“Không. Nó cho tôi biết khi nào cậu lấy ngón tay ra quá sớm, hoặc khi dấu vân tay quá tối, để tôi có thể cho quét lại.” Khi xong việc với các ngón tay, tôi ấn bàn tay mở phẳng của cậu ta xuống mặt kính, đây là dấu vân tay chúng tôi thường xuyên tìm thấy trên những khung kính cửa sổ khi nghi phạm từ trong nhà hé nhìn ra. Rồi tôi quét đường chỉ tay từ ngón út đến cổ tay. Lúc tôi chuẩn bị chuyển sang quét tay trái của Jacob, thì cậu ta đã tự mình làm luôn rồi. “Dễ mà,” tôi nói khi những hình ảnh xuất hiện trên màn hình.
“Vậy anh sẽ tìm kiếm qua Hệ thống Xác định Dấu vân tay Tự động ngay từ máy này?” Jacob hỏi.
“Kế hoạch là thế.” Có máy LiveScan kỹ thuật số kết nối với Hệ thống Xác định Dấu vân tay Tự động thì đúng là của trên trời rơi xuống. Tôi đủ tuổi nghề để nhớ về một thời việc lấy và tìm dấu vân tay phức tạp hơn bây giờ nhiều. Thời đó, những dấu vân tay được gửi đến kho lưu trữ trung tâm của bang, họ sẽ lên giấy tờ cho việc bắt giữ rồi gửi chúng đến FBI. Sau khi cho Jacob vào phòng giam, tôi sẽ phải quay lại để xem thử cậu ta có tiền án tiền sự nào không.
Tôi cho là sẽ chẳng có gì đâu, nhưng thế không có nghĩa đây là lần đầu tiên cậu ta phạm tội. Chỉ là đây là lần đầu tiên cậu ta bị bắt mà thôi.
Các dấu vân tay sẽ được in ra, để tôi cho vào hồ sơ bắt giữ cùng với những tấm hình của Jacob. Trong hồ sơ này, đầu tiên là phần thông tin tiểu sử của cậu ta. Rồi kế đến là mười hình vuông nhỏ, với những dấu vân tay lăn. Tiếp theo là mười hình kỹ thuật số các dấu vân tay phẳng, chúng xếp hàng ngay ngắn hệt như duyệt binh vậy.
Bỗng tôi để ý thấy gương mặt của Jacob. Đôi mắt cậu ta rạng ngời, miệng hé cười. Cậu ta bị bắt vì tội giết người, nhưng lại hệt như đang trên tầng mây thứ chín vậy, chỉ bởi có dịp được tận mắt xem xét một chiếc LiveScan thôi sao?
Tôi ấn nút, và máy in thêm một tờ nữa. “Đây.” Tôi đưa nó cho cậu ta.
Cậu ta nhảy cẫng lên. “Ý ông là… tôi có thể giữ nó sao?”
“Sao lại không chứ?” tôi nói. Trong lúc Jacob say mê nhìn tờ giấy đó, tôi giật khuỷu tay cậu ta để đưa về phòng giam. Lần này, cậu ta không nổi điên khi tôi chạm vào nữa. Cậu ta còn không để ý gì nữa mà.
•••
Tôi từng điều tra một vụ tự tử. Anh chàng này đã uống thuốc ngủ quá liều, và lại là trong lúc trông chừng cho hai đứa bé sinh đôi của chị mình. Hai đứa mười tuổi này đúng là hoang nghịch quá thể. Khi không thể đánh thức cậu mình dậy, chúng quyết định đem cậu ra làm trò chơi. Chúng lấy kem trứng bôi lên mặt và đặt một trái cherry lên mũi anh ta. Đó cũng là thứ đầu tiên đập vào mắt khi tôi nhìn thi thể nằm ngửa trên chiếc sofa phòng khách.
Bọn trẻ chưa bao giờ nhận ra cậu mình đã chết.
Dù cho thế nào, cũng có người sẽ cho chúng biết. Và dù cho đã lo xong vụ đó rồi, tôi vẫn nghĩ nhiều về hai đứa sinh đôi này. Bạn phải biết là, khi biết được sự thật, chúng không bao giờ như trước nữa. Có lẽ tôi là một trong những người cuối cùng nhìn thấy chúng trong tâm hồn trẻ thơ, lúc cái chết vẫn còn quá xa lạ với tâm trí chúng.
Và chuyện đó khiến tôi trằn trọc nhiều đêm. Không phải nghĩ về những thi thể tôi thấy, mà nghĩ về những người còn sống.
Khi tôi khóa cửa phòng giam của Jacob, cậu ta chẳng có phản ứng gì, và điều đó khiến tôi e sợ hơn cả cơn tam bành của cậu ta lúc trước. “Tôi sẽ trở lại với cậu,” tôi nói. “Tôi phải lo vài giấy tờ, rồi ta sẽ đến tòa án. Được chứ?”
Jacob chẳng trả lời. Tay phải cậu ta đang cầm tờ giấy in hình các vân tay. Bàn tay trái thì thả lỏng trên đùi.
“Sao cậu không ngồi xuống đi?” tôi nói.
Thay vì ngồi xuống trên giường, Jacob lại ngồi ngay xuống nền bê tông.
Chúng tôi có một máy quay chĩa thẳng vào buồng giam, để luôn có người coi chừng nghi phạm. Tôi còn phải lo vài chuyện giấy tờ, vốn tốn rất nhiều thời gian, nhưng thay vào đó, tôi lại ghé vào phòng kiểm soát, nhìn chăm chăm màn hình. Suốt mười phút, ngoại trừ bàn tay hơi rung khẽ, Jacob Hunt không động đậy chút nào. Rồi rất chậm rãi, cậu ta bước lùi lại cho đến khi chạm lưng vào tường, nén thân mình vào trong góc buồng giam. Miệng cậu ta mấp máy.
“Cậu ta đang nói cái quái gì thế?” Tôi hỏi nhân viên kiểm soát.
“Có Chúa mới biết.”
Tôi ra khỏi phòng, và mở hé cánh cửa thông đến buồng giam. Tiếng của Jacob vang lên khe khẽ.
Khắp chốn quê nhà,
Họ đang cố săn lùng tôi.
Họ bảo là họ muốn kết tội tôi
Vì đã giết cảnh sát phó.
Tôi mở toang cánh cửa và bước đến buồng giam. Jacob vẫn cứ hát, giọng trầm bổng. Tiếng bước chân tôi vang vọng trên sàn bê tông, nhưng cậu ta vẫn không ngừng hát. Cả khi tôi đã đến bên cửa buồng giam, đứng khoanh tay ngay trước mặt, cậu ta vẫn coi như không.
Jacob hát đoạn điệp khúc thêm hai lần nữa, rồi mới thôi. Cậu ta không nhìn tôi, nhưng qua đôi vai đang gồng lên của Jacob, rõ ràng cậu ta biết tôi đang đứng đây.
Tôi thở dài, và nhận ra là mình sẽ không chịu để cho đứa nhóc này được yên. Và tôi sẽ không cách nào làm cho xong giấy tờ cần thiết trừ phi có thể thuyết phục cậu ta đấy là một bài học nữa về các thủ tục của cảnh sát. “Vậy thì,” tôi vừa nói vừa mở cửa buồng, “cậu từng điền bản khai tiếp nhận nào chưa?”