- 3 - Theo
Mẹ tôi không thường rơi nước mắt. Lần đầu tiên, như tôi đã kể, là ở thư viện lúc tôi lên cơn kích động. Lần thứ hai là lúc tôi mười tuổi còn Jacob mười ba tuổi, và anh có bài tập về nhà của lớp kỹ năng sống. Mà Jacob ghét lớp này lắm, bởi trong lớp chỉ có hai đứa trẻ tự kỷ, và đứa kia không phải mang hội chứng Asperger mà là một dạng thấp hơn, và suốt giờ học nó chỉ biết ngồi xếp bút chì màu thành một hàng dài. Ba đứa khác trong lớp thì mang hội chứng Down hoặc là bị thiểu năng. Bởi thế, phần lớn thời gian trong lớp dành để dạy về những chuyện như vệ sinh, thứ mà Jacob biết thừa rồi. Và một ngày nọ, cô giáo ra bài tập cho cả lớp là hãy làm bạn với ai đó.
“Không làm bạn được,” Jacob giận dữ hét lên. “Bạn bè đâu có phải như cái bánh nhào nặn rồi cho vào lò.”
“Con chỉ cần ghi nhớ những bước mà cô LaFoye chỉ cho mà thôi,” mẹ tôi bảo. “Nhìn vào mắt ai đó, cho họ biết tên của mình, hỏi xem họ có muốn chơi cùng không.”
Dù chỉ mới mười tuổi, tôi cũng biết thừa là làm kiểu đó chỉ khiến bạn bị đuổi đi mà thôi, nhưng tôi không định nói cho Jacob biết đâu.
Rồi ba mẹ con chúng tôi đến sân chơi, và tôi ngồi cùng mẹ trên ghế băng để xem Jacob đi kết bạn. Vấn đề là trong sân không có ai bằng tuổi với anh cả. Đứa nhiều tuổi nhất cũng chỉ trạc tuổi tôi, và nó đang chơi nhào lộn trên xà đu. Jacob tiến lại gần nó và nghiêng người chúi đầu xuống để có thể nhìn vào mắt nó. “Tên tôi là Jacob,” anh nói với cái giọng đặc trưng của mình, cái giọng tôi đã quá quen nhưng bất kỳ người nào khác cũng sẽ thấy nó thật quái đản, cái giọng đều đều như tấm thớt, chẳng bao giờ có một điểm nhấn. “Bạn có muốn chơi không?”
Thằng bé đu người xuống đất. “Mày là đứa thiểu năng à?”
Jacob ngẫm nghĩ rồi nói. “Không.”
“Bí quá nói bừa,” thằng bé kia nói lại. “Mày đúng là thiểu năng.”
Rồi nó bỏ đi, để lại Jacob đứng một mình dưới cái xà đu. Tôi định đứng dậy để giúp anh, nhưng ngay lúc đó anh bắt đầu chậm rãi xoay người theo vòng tròn. Tôi không biết anh đang làm gì, nhưng rồi tôi nhận ra là anh thích tiếng đế giày đạp trên một chiếc lá khô dưới chân.
Anh lấy mũi giày ấn mạnh lên những chiếc lá cho đến khi chạm vào lớp cát mới thôi. Có hai đứa nhóc, một tóc vàng và một tóc đỏ, đang ngồi chơi đồ hàng, làm bánh pizza bằng cát. “Một cái nữa này,” một đứa nói và đặt một nắm đá lên tay vịn gỗ, để con bé kia có thể trang trí cho cái bánh của nó với pepperoni bằng đá và pho mát bằng cỏ.
“Chào, anh là Jacob,” anh trai tôi mở lời với chúng.
“Em là Annika, khi lớn lên em sẽ làm kỳ lân,” bé tóc vàng nói.
Bé tóc đỏ thì cứ chúi mũi vào cái đống pizza giả. “Em trai của em bị trượt chân trong phòng tắm, ngã ê mông luôn.”
“Em có muốn chơi không?” Jacob hỏi. “Ta có thể đào đất tìm khủng long.”
“Chẳng có khủng long trong hố cát đâu, chỉ có pizza thôi,” Annika nói. “Maggie sẽ lo xếp pho mát và đủ thứ khác cho bánh, còn anh có thể làm bồi bàn.”
Đứng trong hố cát giữa hai cô bé, Jacob trông như gã khổng lồ. Một bà cứ chằm chằm nhìn Jacob, tôi cá bà ta thế nào cũng là mẹ của Annika hoặc Maggie và đang tự hỏi cái đứa mười ba tuổi đang chơi với cục vàng của mình có phải là một kẻ biến thái không. Jacob nhặt lên một cái que rồi bắt đầu vẽ một bộ xương trên cát. “Loài Allosaurus có một chạc xương đòn, cũng như những con khủng long ăn thịt khác,” anh nói với hai đứa nhóc. “Hai em có thể tìm được cái xương này trong con gà đấy.”
“Một cái nữa này,” Annika nói rồi đổ một đống cát trước mặt Maggie. Rõ ràng có thể thấy Jacob và hai cô bé đó đang sống ở hai thế giới khác biệt. Họ chơi cạnh nhau hơn là chơi với nhau.
Jacob ngước mắt lên và cười với tôi. Anh nghiêng đầu về phía hai cô bé, như thể muốn nói, Này, nhìn đi, anh đã kết thân được hai người bạn.
Tôi liếc qua mẹ, và thấy mẹ đang khóc. Nước mắt chảy xuống má, và mẹ chẳng cố gạt chúng đi. Gần như thể mẹ không biết là mình đang khóc.
Có biết bao nhiêu lần khác trong đời đáng cho mẹ phải khóc hơn nữa kia. Là lúc mẹ phải đến nói chuyện với hiệu trưởng về một chuyện rắc rối Jacob gây ra chẳng hạn. Hay là lúc anh lên cơn khi đang đứng giữa đám đông, như cái lần hồi năm ngoái, ở trước rạp ông già Noel trong trung tâm mua sắm, khi vô số những đứa nhóc cùng bố mẹ của chúng chứng kiến cơn bùng phát dữ dội của Jacob. Nhưng mà nước mắt mẹ tôi đã khô rồi, khuôn mặt mẹ không còn cảm xúc gì nữa. Thật sự là trong những lúc đó, mẹ tôi trông hơi giống Jacob.
Tôi không biết vì lý do nào mà hình ảnh anh trai tôi cùng với hai cô bé trong hố cát lại khiến mẹ tôi sụp đổ đến thế. Tôi chỉ biết rằng, lúc đó tôi thấy thế giới như đảo lộn. Đáng ra phải là một đứa trẻ khóc và mẹ nó dỗ dành, chứ không phải ngược lại. Và chính vì thế mà người mẹ phải tìm đủ mọi cách trên trời dưới đất để kìm nén bản thân trước mặt con cái.
Ngay từ lúc đó, tôi đã biết rằng, nếu Jacob là người khiến mẹ tôi phải khóc, thì tôi chính là người phải ngăn dòng nước mắt đó lại.
Tất nhiên tôi biết mẹ và Jacob đang ở đâu, mẹ đã gọi cho tôi từ tòa án mà. Nhưng cho đến khi nào mẹ và anh về đến nhà, thì chuyện đó không thể khiến tôi lơ đãng môn lịch sử công dân hay môn địa lý.
Tôi không biết thầy giáo mình có chấp nhận một cái cớ kiểu như, Xin lỗi thầy vì em đã không làm bài tập về nhà, bởi anh của em đang bị khởi tố.
Chắc chắn thầy giáo địa lý của tôi sẽ nói, Làm như tôi chưa từng nghe cái lý do đó cả ngàn lần rồi vậy.
Ngay khi nghe tiếng cửa mở, tôi liền chạy ngay ra để xem đã có chuyện gì. Mẹ tôi bước vào, đi một mình, rồi ngồi xuống chiếc trường kỷ mà chúng tôi thường ném bừa cặp sách vào đó.
“Jacob đâu?” Tôi hỏi, và mẹ ngước mắt lên, rất chậm rãi, nhìn tôi.
“Trong tù,” mẹ nói khẽ. “Lạy Chúa tôi, nó ở trong tù.” Mẹ cúi gập cả người xuống.
“Mẹ?” Tôi chạm vào vai mẹ, nhưng mẹ chẳng nhúc nhích gì. Và nó khiến tôi sợ chết khiếp, một cảm giác rất quen thuộc ùa về.
Tôi phải mất một giây để xác định xem nó là cái gì. Cái cách mẹ nhìn vào không trung, không chút phản ứng, hệt như Jacob hồi tuần trước, khi chúng tôi cố cách mấy cũng không thể khiến anh ấy lại hồn.
“Thôi nào, mẹ.” Tôi vòng tay quanh người và nhấc bổng mẹ lên. Mẹ giờ như một khúc gỗ vậy. Tôi đưa mẹ lên phòng, trong đầu hoang mang không hiểu vì sao Jacob lại đang ở trong tù. Chẳng phải anh có quyền được xét xử nhanh hay sao? Chẳng lẽ lại nhanh đến thế hay sao? Nếu tôi đã làm xong bài tập Lịch sử Công dân, có lẽ tôi sẽ hiểu được chuyện gì đang xảy ra, nhưng giờ tôi chỉ biết một điều. Tôi không nên hỏi chuyện mẹ.
Tôi đặt mẹ ngồi xuống giường, rồi quỳ xuống tháo giày cho mẹ. “Mẹ cứ nằm xuống,” tôi nói như thể hai mẹ con tôi đang đổi vai cho nhau. “Con sẽ lấy cho mẹ một tách trà, được chứ?”
Vào bếp, tôi bắc ấm lên, và rồi cơn lũ những ký ức ùa về. Lần cuối cùng tôi làm chuyện này, bắc ấm nước, lấy túi trà và cho vào tách, lần đó là ở nhà của Jess Ogilvy. Thật sự là chỉ có may rủi mới khiến cho Jacob đang ngồi trong tù, còn tôi thì lại đang ở đây. Đáng ra mọi chuyện đã khác đi hẳn.
Một phần trong tôi thấy khuây khỏa vì chuyện này, và cảm giác đó khiến tôi thấy mình đúng là đồ rác rưởi.
Tôi tự hỏi thám tử đã nói với Jacob những lời gì. Và tại sao lúc đầu chính mẹ tôi lại là người đưa Jacob đến đó. Có lẽ chính vì việc đó mà giờ mẹ tôi suy sụp. Mẹ sụp đổ không phải vì đau buồn mà vì cảm giác tội lỗi. Là thế đấy, tôi hiểu rồi. Nếu tôi đến đồn cảnh sát và bảo họ là cùng ngày hôm đó, tôi đã thấy Jess còn sống và trần truồng, thì như thế sẽ khiến mọi chuyện tệ hơn hay tốt hơn cho Jacob?
Tôi thực sự không biết mẹ tôi thích uống trà kiểu nào, nên tôi cứ cho cả sữa và đường vào, rồi đem lên lầu. Giờ mẹ ngồi dậy rồi, dựa mình vào chiếc gối sau lưng. Khi thấy tôi, mẹ bật khóc. “Con trai của mẹ,” mẹ nói, rồi tôi ngồi xuống cạnh mẹ. Hai bàn tay mẹ ôm lấy má tôi. “Con trai dễ thương của mẹ.”
Hẳn mẹ đang nói về tôi, và cả về Jacob nữa. Tôi nghĩ, dù thế nào cũng được.
“Mẹ,” tôi hỏi. “Có chuyện gì thế?”
“Jacob phải ở lại trong tù… trong hai tuần. Rồi họ lại đưa anh con ra tòa để xem nó có đủ năng lực để bị đưa ra xét xử hay không.”
Được rồi, tôi không phải khoa học gia vũ trụ, nhưng cách hay nhất để xem một người có đủ năng lực đứng trước tòa không có lẽ không phải là nhốt người đó trong tù suốt hai tuần. Ý tôi là, nếu bạn không thể đứng trước tòa, thì làm sao bạn ở tù nổi chứ?
“Nhưng… anh ấy đâu có làm gì sai?” tôi nói và thận trọng nhìn mặt mẹ, xem thử mẹ có biết hơn tôi chuyện gì không?
Mà nếu mẹ có biết, hẳn mẹ đã giấu đi rồi. “Chuyện đó có vẻ cũng chẳng nghĩa lý gì.”
Hôm nay trong tiết Lịch sử Công dân, chúng tôi đã bàn về tảng đá góc của hệ thống pháp chế nước mình, đó là nguyên tắc: bạn vẫn vô tội cho đến khi bị chứng minh là có tội. Giam ai đó trong tù lúc bạn cố xác định bước tiếp theo, có vẻ như bạn đã tước đi quyền phản biện của người đó rồi. Như thể bạn đã xác định người đó đã làm sai, nên chỗ của anh ta là trong bốn bức tường.
Mẹ tôi bảo là Jacob đã bị dẫn dụ nói chuyện với thám tử. Mẹ kể mẹ đã chạy đi tìm luật sư. Mẹ đã chứng kiến Jacob bị bắt giữ ngay trước mắt mình. Mẹ còn chứng kiến Jacob rũ người ra khi những tay chấp hành tòa cố khóa tay anh.
Tôi không hiểu tại sao ông luật sư không thể giúp cho Jacob được thả về nhà. Tôi đã đọc rất nhiều tiểu thuyết của Grisham, đủ để biết hầu như lúc nào người ta cũng được tại ngoại, nhất là với những người không có tiền án tiền sự.
“Vậy giờ thì sao?” Tôi hỏi.
Và tôi không chỉ hỏi cho Jacob. Tôi hỏi cho cả nhà. Suốt những năm qua, tôi đã ước cho Jacob biến mất, và giờ khi anh không có ở nhà, tôi mới biết chuyện đó là thế nào? Làm sao tôi có thể bình thản làm một nồi súp để ăn tối, khi biết anh mình đang nằm trong buồng giam? Làm sao sáng mai tôi thức dậy, đi học, và vờ như mọi chuyện vẫn như thường?
“Oliver, anh chàng luật sư đó, nói rằng người ta được thả suốt thôi. Cảnh sát tìm được chứng cứ mới nào đó, rồi họ cho nghi phạm ban đầu về.”
Mẹ cứ bám vào khả năng đó, như một lá bùa may mắn vậy. Jacob sẽ được thả, và tất cả chúng tôi sẽ trở lại cuộc sống bình thường. Bạn đừng để tâm đến cách chúng tôi điềm tĩnh đến thế, cũng đừng nghĩ rằng dù cho Jacob được thả ra cũng không phải là hết chuyện. Mà hãy hình dung mình nằm trong tù hai mươi năm vì một tội ác mình chưa từng phạm, và chỉ được tự do khi được kết quả giám định ADN minh oan. Chắc chắn lúc đó bạn sẽ tự do, nhưng chẳng bao giờ bạn lấy lại được hai mươi năm đã qua. Bạn không bao giờ thoát được cái mác “gã đó từng ngồi tù.”
Bởi không biết phải nói chuyện này với mẹ thế nào, và tôi chắc chắn mẹ cũng chẳng muốn nghe, nên tôi với tay lấy cái điều khiển và mở chiếc tivi trên kệ tủ ở góc phòng. Giờ đang là mục dự báo thời tiết, với một cơn bão có thể sẽ ập đến vào tuần sau. “Cảm ơn, Norm,” biên tập viên nói với anh chàng thời tiết, rồi tiếp tục. “Tin nóng về vụ sát hại Jessica Ogilvy… Cảnh sát đã bắt giam Jacob Hunt, 18 tuổi, ở Townsend, Vermont, vì có liên quan đến vụ án mạng.”
Mẹ tôi lạnh cả người. Tấm ảnh học sinh của Jacob phủ kín màn hình tivi. Trong ảnh, anh mặc áo sơmi xanh dương, và như thường lệ, mắt lảng tránh ống kính. “Jacob là học sinh ở Trường Trung học Townsend, và là học sinh dạy kèm của nạn nhân.”
Chết tiệt.
“Chúng tôi sẽ theo sát và cung cấp thêm chi tiết về vụ án này,” cô biên tập viên hứa hẹn. Mẹ tôi cầm cái điều khiển lên. Tôi nghĩ hẳn mẹ sẽ tắt tivi, nhưng thay vào đó, mẹ lại ném thẳng nó vào màn hình. Chiếc điều khiển vỡ tung, và màn hình bị rạn. Rồi mẹ quay người thu mình trên giường.
“Con đi lấy chổi đây,” tôi nói.
Lúc nửa đêm, tôi nghe có tiếng phát ra từ nhà bếp. Tôi lần xuống lầu, và thấy mẹ đang lục hộc tủ để tìm quyển danh bạ điện thoại. Mẹ chẳng cột tóc, cũng chẳng đi dép, và trên áo còn vương một vết kem đánh răng. “Sao chẳng có thứ gì thuộc danh mục Chính phủ,” mẹ lầm bầm.
“Mẹ đang làm gì thế?”
“Mẹ phải gọi vào nhà tù. Nó không thích bóng tối. Mẹ có thể đem cho anh con một bóng đèn ngủ. Mẹ muốn họ biết là mẹ có thể đem cho nó một bóng đèn ngủ, nếu được.”
“Mẹ,” tôi nói.
Mẹ nhấc điện thoại lên.
“Mẹ… mẹ cần phải đi ngủ đi thôi.”
“Không,” mẹ tôi kiên quyết. “Mẹ phải gọi vào nhà tù…”
“Đang là ba giờ sáng. Họ ngủ cả rồi.” Tôi nhìn mẹ. “Jacob cũng đang ngủ.”
Mẹ quay lại nhìn tôi. “Con thực sự nghĩ thế sao?”
“Vâng,” tôi nói, nhưng cái từ đó cứ nghèn nghẹn trong cổ. “Vâng, con tin là thế.”
Tôi sợ nhiều chuyện.
Sợ cái thứ mà Jacob yêu thích nhất giờ không còn là thú vui mà bắt đầu trở thành nỗi ám ảnh.
Sợ rằng chính vì chuyện đó mà giờ anh đang ở trong tù.
Sợ khi anh ấy ở với Jess, đã có chuyện gì đó khiến anh hoảng lên, thấy bị dồn ép, và khiến anh lên cơn bạo lực.
Sợ rằng những con người có thể yêu thương ai đó, nhưng lại ghét anh ấy.
Sợ rằng tuổi tác chẳng phải là thứ để phân biệt ai mới là người anh cả.
Nếu bạn nghĩ có một người anh mắc chứng Asperger khiến tôi bị xã hội ruồng rẫy, thì thử hình dung nếu tôi có một người anh ở tù nữa thì sao. Ngày mai tôi đến trường, mà cũng có thể là phải vài ngày nữa, và rồi dù tôi đi đâu thì văng vẳng bên tai cũng là những tiếng xì xầm.
Tớ nghe nói hắn đã lấy dao cắt ngón tay cô ấy và giữ lại làm kỷ niệm.
Tớ nghe nói hắn đánh cô ấy bằng cái mũ chơi bóng bầu dục.
Tớ luôn nghĩ hắn thật kinh tởm. Thế đấy.
Hôm nay ngồi trong lớp, tôi chỉ biết ngồi cho có thôi, bởi đầu óc tôi quá bận rộn kháng cự lại những lời nói xấu đang xì xầm bên tai. Lý do hôm nay tôi đến trường là bởi mẹ tôi nghĩ đấy là cách làm tốt nhất. “Mẹ phải đến nhà tù,” mẹ nói, mà tôi cũng biết trước là thế rồi. “Con không thể ở nhà suốt hai tuần được. Dù thế nào rồi con cũng phải đi học lại mà.”
Tôi biết là mẹ nói đúng, nhưng mẹ có nhận ra rằng ở trường người ta sẽ vây lấy tôi để hỏi về Jacob? Dám chắc là thế. Và không chỉ đám bạn thôi đâu. Các thầy cô cũng sẽ đến với vẻ mặt đầy thương cảm giả tạo trong khi thực sự họ chỉ muốn biết vài chuyện giật gân để múa miệng trong phòng giáo viên. Hình dung như thế khiến tôi thấy nôn nao không chịu nổi.
“Nếu có ai hỏi, thì con biết nói sao?”
Mẹ tôi khựng lại một chút. “Bảo họ là luật sư của anh con nói rằng con không được bàn về chuyện này.”
“Thật thế à?”
“Mẹ chẳng biết nữa.”
Tôi hít một hơi thật sâu. Tôi định sẽ trút hết những gì đè nặng trong lòng, kể cho mẹ nghe chuyện tôi đã đột nhập vào nhà của Jess. “Mẹ, con phải nói với mẹ chuyện này…”
“Để sau được không?” mẹ nói. “Mẹ muốn đến nhà tù lúc 9:00, ngay khi nó vừa mở cửa. Còn nhiều ngũ cốc để ăn sáng đấy, và con có thể tự bắt xe buýt mà.”
Giờ trong tiết sinh học, tôi đang ngồi cạnh Elise Howath, một đứa đáng để bắt cặp làm bài tập, dù cho nó là con gái. Đột nhiên, Elise chuyền cho tôi một mảnh giấy.
Tớ rất tiếc khi nghe về chuyện của anh cậu.
Tôi muốn cảm ơn Elise vì đã tỏ ra tử tế. Vì là người đầu tiên thèm tỏ chút quan tâm về Jacob, chứ không phải như truyền thông và cái tòa án ngu ngốc đang kết án anh vì những chuyện mà anh đã làm.
Những chuyện anh đã làm.
Tôi chộp lấy balô và lao ra khỏi lớp. Dù vẫn nghe tiếng thầy Jennison đang lầm bầm sau lưng, nhưng tôi lại không nghe thấy những lời mắng nhiếc như thường lệ. Và từ đó, tôi biết rằng cuộc đời tôi đã đảo lộn cả rồi. Tôi băng qua sảnh không cần xin phép, và chẳng có ai cản tôi lại. Cả khi tôi đi qua văn phòng hiệu trưởng và phòng giám thị cũng thế. Cả khi tôi mở tung cánh cửa đôi gần phòng thể dục, và bước ra sân trong ánh nắng chiều cũng vậy.
Có vẻ như nếu có một người thân bị bắt vì tội giết người, thì bạn trở nên vô hình trong mắt thầy cô và ban giám hiệu nhà trường.
Mà nói thật, nó cũng không hoàn toàn khác hẳn với cách họ đối xử với tôi trước đây.
Tôi ước giá mà có đem theo ván trượt. Như thế tôi có thể đi nhanh hơn, có thể còn nhanh hơn cả cái suy nghĩ đang quay vòng vòng trong đầu tôi nữa.
Tôi đã thấy Jess Ogilvy còn sống và khỏe mạnh. Không lâu sau đó, Jacob đến nhà cô ấy.
Giờ cô ấy chết rồi.
Tôi đã tận mắt thấy anh mình đập thẳng một chiếc ghế vào tường, và lấy tay không đấm thẳng vào cửa kính. Tôi từng bị dính đòn của anh ấy, những lúc anh lên cơn. Các vết sẹo trên người tôi là bằng chứng đây.
Từ đó bạn có thể suy đoán theo lôgic.
Anh tôi là một kẻ giết người. Tôi thử nhẩm câu này, và ngay lập tức thấy đau nhói trong tim. Bạn không thể nói ra những lời đó theo cùng kiểu như Anh trai tôi cao mét tám, hay Anh trai tôi thích trứng rán, như thể chúng là sự thật tất nhiên vậy. Nhưng Jacob mà tôi biết một tuần trước cũng chẳng khác gì Jacob mà tôi biết sáng nay. Vậy thế nghĩa là tôi quá ngu ngốc để phát hiện ra một bản tính xấu của anh trai mình sao? Hay là bất kỳ ai, kể cả Jacob, đều có thể đột nhiên trở nên một con người mà chẳng bao giờ bạn tưởng tượng ra nổi?
Chắc chắn là tôi đủ khôn mà.
Cả đời này tôi nghĩ là tôi chẳng có nét gì chung với anh trai mình, vậy mà hóa ra cả hai chúng tôi đều là tội phạm.
Nhưng mày đâu có giết ai.
Tiếng đó cứ vang vọng trong đầu tôi như một lời biện bạch. Theo tất cả những gì tôi biết, thì Jacob cũng có những lý lẽ của anh ấy.
Nghĩ thế khiến tôi càng chạy nhanh hơn. Nhưng dù cho tôi có nhanh như tên bắn cũng không tài nào xóa bỏ được sự thật đau đớn là tôi chẳng hơn gì đám khốn nạn ở trường. Tôi đã cho rằng anh trai tôi có tội.
Có một chiếc hồ, nằm ở phía sau trường. Vào mùa đông, mọi người chen chúc đến đây, và cả những dịp cuối tuần với những nhóm cắm trại đốt lửa tiệc tùng vui vẻ. Nhờ mấy ông bố mê hockey dùng xẻng dọn băng nên mặt băng bây giờ đã láng mịn để sẵn sàng cho vài trận đấu sắp đến. Dù không mang giày trượt, nhưng tôi vẫn bước lên mặt băng.
Vào ngày thường, ở đây không đông lắm. Có vài bà mẹ bồng con nhỏ, lướt đi nhè nhẹ như thể đang tập cho đứa bé trượt băng vậy. Một ông già mang đôi giày trượt màu đen khiến tôi nghĩ đến đất nước Hà Lan, hay những vận động viên Olympic, ông đang trượt theo hình số tám. Tôi thả ba lô xuống rìa hồ băng và rón rén từng bước một đến ngay chính giữa mặt hồ.
Ở Townsend, năm nào người ta cũng cá cược nhau lúc nào thì băng sẽ tan hết. Họ đóng một cái cọc trên băng rồi gắn vào đó một thứ kiểu như đồng hồ kỹ thuật số, và khi băng tan đủ để cái cọc nghiêng đi, thì nó ngả vào một nút bấm và ghi lại khoảng thời gian đó. Mọi người đặt cược ngày nào giờ nào băng sẽ tan, và người đoán gần đúng nhất sẽ thắng tất. Tôi nhớ số tiền năm ngoái là $4.500.
Nếu thời khắc băng tan là ngay lúc này thì sao? Nếu tôi chìm xuống hồ thì sao? Mấy đứa trẻ trượt băng quanh đây có nghe thấy tiếng tõm của tôi không? Ông già mang giày đen có đến cứu tôi không?
Thầy giáo môn Ngữ văn của tôi đã nói rằng một câu hỏi tu từ là một câu hỏi không mong chờ câu trả lời. Giáo hoàng là người Công giáo à? Hoặc Con gấu đi trong rừng à?
Tôi thì nghĩ đó là một câu hỏi có câu trả lời mà bạn không muốn nghe thôi.
Chiếc áo này khiến tớ trông béo à?
Cậu có thật sự ngu đến thế không?
Nếu băng tan và chẳng ai thấy tôi rơi xuống, thì có bao giờ tôi thực sự tồn tại hay không?
Nếu tôi mới là người ngồi tù, liệu Jacob có tin tôi là một đứa khốn nạn không?
Cứ như thế, tôi ngồi xuống trên lớp băng giữa hồ. Hơi lạnh len qua lớp quần jean của tôi. Tôi đang hình dung mình bị đóng băng từ trong ra. Họ sẽ tìm thấy tảng băng người là tôi, và tôi sẽ là một tác phẩm điêu khắc.
“Này nhóc, ổn chứ?” Ông già đang trượt ngang qua chỗ tôi, ngoái lại hỏi. “Cháu cần giúp gì không?”
Như tôi đã nói, đó là một câu hỏi mà bạn thực sự không muốn nghe.
Tối qua tôi ngủ không nhiều, nhưng mỗi lần ngủ là tôi mơ. Tôi mơ thấy mình phá ngục giải cứu Jacob. Tôi phá ngục bằng cách đọc hết mấy quyển sổ ghi chép về CrimeBusters của anh, và bắt chước kỹ thuật của mấy tay trộm trèo tường. Ngay khi tôi leo đến góc nhà tù phía ngoài buồng giam Jacob, anh đã chờ sẵn rồi. Jacob, tôi nói, anh phải làm theo chính xác những lời em bảo, và anh ấy đã làm thế. Vì thế mà tôi biết ngay mình đang mơ. Jacob yên lặng làm theo lời tôi, và chẳng hỏi câu nào. Chúng tôi rón rén đi qua chốt bảo vệ, và cả hai nhảy vào một thùng rác khổng lồ, ngập trong đống giấy tờ rác rến. Nhân viên vệ sinh đến và đẩy cái thùng rác có chúng tôi bên trong qua mấy lớp cửa bảo vệ và cả cổng chính khóa im lìm. Ngay khi anh ta chuẩn bị cho thùng vào máy nghiền rác bên ngoài nhà tù, tôi liền hét lên, Đi! Rồi cả hai chúng tôi nhảy ra và bắt đầu chạy. Chúng tôi chạy suốt nhiều giờ, cho đến khi ngoái lại chỉ còn thấy những ngôi sao lấp lánh trên cao. Cuối cùng, chúng tôi dừng chân ở một cánh đồng cỏ mọc cao ngất, ngả lưng nằm nghỉ.
Anh không làm chuyện đó, Jacob bảo tôi thế.
Em tin anh, tôi nói, và tôi thật sự nghĩ vậy.
Vào cái ngày Jacob làm bài tập kết bạn, hai cô bé anh gặp trong hố cát cuối cùng cũng đến giờ phải ra về. Chúng chạy đi mà không chào tạm biệt, để lại anh trai mười ba tuổi của tôi ngồi bới cát một mình.
Lúc đó, tôi sợ phải nhìn vào mắt mẹ mình lần nữa. Nên tôi bước đến hố cát, và ngồi xuống. Tôi phải ngồi bó gối, đầu gối chạm đến tận cằm. Tôi quá bự con so với chỗ này, và nhìn anh trai tôi rúc vào đây thì càng điên rồ hơn nữa. Tôi nhặt lấy một viên đá và bắt đầu vạch lung tung vào mặt cát. “Ta đang tìm gì thế?” Tôi hỏi.
“Con Allosaurus,” Jacob trả lời.
“Làm sao ta biết lúc nào thì tìm thấy nó?”
Jacob ngước mặt lên. “À, thì xương sống và hộp sọ của nó không nặng nề như mấy con khủng long khác. Đúng như ý nghĩa cái tên của nó, dịch ra là một loài thằn lằn khác.”
Tôi hình dung bất kỳ đứa nhóc nào trạc tuổi Jacob đi ngang và thấy anh chơi trò khảo cổ sinh vật học trong một hố cát, thể nào chẳng hỏi liệu nó có bao giờ có bạn không?
“Theo,” đột nhiên anh nói khẽ, “em biết là ta thực sự sẽ không tìm thấy con Allosaurus ở đây mà.”
“Phải.” Tôi bật cười. “Nhưng nếu tìm thấy, ta sẽ làm nên lịch sử, phải chứ?”
“Báo đài sẽ chen nhau đến,” Jacob nói.
“Dẹp báo đài đi, ta sẽ lên sóng với Oprah,” tôi bảo. “Hai đứa trẻ tìm thấy xương khủng long trong hố cát. Thậm chí ta còn được in hình lên hộp Wheaties nữa đấy.”
“Anh em nhà Hunt siêu đẳng.” Jacob cười ngoác cả miệng. “Họ sẽ gọi ta như thế.”
“Anh em nhà Hunt siêu đẳng,” tôi lặp lại và ngồi nhìn Jacob lấy xẻng đào đến tận đáy hố. Tôi tự hỏi còn bao lâu nữa tôi sẽ phải đóng vai anh cả của anh ấy.