← Quay lại trang sách

- 5 - Emma

Tôi cho thuốc và thực phẩm chức năng của Jacob vào đầy hai chiếc túi Ziploc. Một số thì lấy thuốc theo toa, là thuốc an thần của bác sĩ Murano cho, và số khác là tôi mua trên mạng cho nó, như chất glutathione chẳng hạn. Tôi đang đợi bên ngoài lối vào cho khách đến thăm tù, thì cánh cửa bật mở.

Lúc tôi còn nhỏ, mẹ tôi thường kể lại chuyện mẹ bị vỡ ruột thừa. Đó là thời bố mẹ chưa được phép ở lại chăm sóc cho con cái trong bệnh viện, nên bà của tôi cứ đến sớm hơn giờ thăm bệnh đến bốn tiếng và đứng chờ ở trước bãi đỗ xe, để mẹ tôi có thể nhìn thấy bà từ giường bệnh của mình. Bà tôi cứ đứng đó, mỉm cười và vẫy tay cho đến khi họ cho bà vào.

Nếu Jacob biết tôi đang đợi nó, nếu nó biết tôi sẽ đến thăm mỗi ngày vào lúc 9:00 sáng, thì nó sẽ có một thời gian biểu để theo.

Tôi tưởng sẽ có nhiều người hơn cùng đứng với tôi đợi cánh cổng nhà tù bật mở, nhưng có lẽ các bà mẹ đi thăm con không ham chuyện này. Có lẽ họ đã quen giờ giấc mở cửa. Chỉ có một người đứng chờ cùng tôi, một ông mặc vest và mang cặp táp. Hẳn ông ta là luật sư rồi. Ông ta cứ giậm chân suốt. “Lạnh quá,” ông nói và khẽ mỉm cười.

Tôi cũng mỉm cười lại. “Lạnh thật.” Hẳn ông ta là luật sư biện hộ, đến đây để gặp thân chủ mình, “ông có biết thủ tục vào thăm tù không?”

“Ồ, lần đầu hả?” ông nói. “Chuyện vặt thôi mà. Cô vào đó, trình giấy tờ, rồi đi qua máy dò kim loại. Kiểu như cái máy ở sân bay vậy.”

“Trừ việc ông chẳng đi đâu cả,” tôi đăm chiêu.

Ông nhìn tôi và bật cười. “Chắc chắn rồi.”

Một viên quản giáo xuất hiện bên kia cánh cửa kính và mở khóa. “Này, Joe,” viên luật sư nói, và ông quản giáo cười chào. “Tối qua anh có xem đội Bruins không?”

“Có. Trả lời cho tôi câu này nhé. Sao đội Patriots và Sox có thể thắng giải vô địch mà đội Bruins vẫn trượt băng như mấy đứa dở người thế?”

Tôi theo họ vào phòng chờ. Một quản giáo khác bước vào và ông luật sư đưa bằng lái của mình cho ông ta. Ông luật sư viết gì đó trên một kẹp giấy, và đưa chìa khóa của mình cho quản giáo. Rồi ông đi qua máy dò kim loại, và đi thẳng xuống dãy hành lang.

“Tôi giúp gì được cho bà?” viên quản giáo hỏi.

“Vâng. Tôi đến đây để gặp con trai tôi. Jacob Hunt.”

“Hunt.” Ông lướt mắt qua danh sách. “À, Hunt. Phải rồi. Cậu ta vừa đến đây hồi tối qua.”

“Phải.”

“Cậu ta chưa được phép.”

“Cho chuyện gì chứ?”

“Gặp khách viếng thăm. Trước ngày thứ Bảy, cô sẽ được thông báo rõ ràng, mà dù gì đó cũng là ngày thăm viếng mà.”

“Thứ Bảy sao?” Tôi lặp lại. “Ông nghĩ là tôi phải đợi đến ngày thứ Bảy sao?”

“Xin lỗi bà. Cho đến khi mọi chuyện rõ ràng, tôi không thể giúp gì được.”

“Con trai tôi bị tự kỷ. Nó cần được gặp tôi. Khi thời gian biểu của nó bị thay đổi, nó có thể vô cùng buồn bực. Thậm chí là trở nên bạo lực.”

“Thế thì tôi cho là thật may khi cậu ta ở trong tù,” quản giáo nói.

“Nhưng nó cần uống thuốc…” Tôi nhấc hai chiếc túi lên và đặt chúng trên quầy tiếp tân.

“Nhân viên y tế của chúng tôi có thể lo được thuốc kê theo đơn,” ông quản giáo nói. “Tôi có thể cho bà một mẫu đơn để điền vào.”

“Còn có thực phẩm chức năng theo chế độ ăn kiêng nữa. Và nó không thể ăn gluten, hay casein…”

“Cứ bảo bác sĩ của cậu ta liên lạc với văn phòng giám đốc nhà tù đi.”

Nhưng chế độ ăn kiêng và thực phẩm chức năng của Jacob đâu phải theo đơn của bác sĩ, chúng chỉ làm theo những mách nước mà mẹ của những đứa trẻ bị tự kỷ nghiệm ra sau nhiều năm cùng vật lộn với chúng. “Khi Jacob bị gián đoạn chế độ ăn kiêng, thì hành vi của nó trở nên tệ hơn…”

“Thế thì có lẽ ta nên cho tất cả phạm nhân ăn kiêng luôn mới phải,” viên quản giáo nói. “Cô nghe này, tôi rất tiếc, nhưng nếu không có yêu cầu của bác sĩ, chúng tôi không thể chuyển thứ gì cho phạm nhân.”

Đâu phải lỗi của tôi khi cộng đồng y khoa không tán thành những biện pháp chữa trị mà các bậc cha mẹ có con bị tự kỷ tin tưởng? Tiền cho nghiên cứu về chứng tự kỷ quá ít ỏi nên dù cho nhiều bác sĩ đồng ý rằng những thực phẩm chức năng này có hiệu quả giúp Jacob tập trung hơn hoặc tránh được những cơn nhạy cảm cực độ, nhưng họ lại không thể xác nhận điều đó một cách khoa học được. Nếu tôi đã chờ các bác sĩ và khoa học gia chỉ bảo rành mạch rõ ràng về cách giúp con trai mình, thì hẳn nó vẫn đang còn bị giam trong cái thế giới nhỏ bé của nó hệt như lúc nó mới ba tuổi, vô cảm và tách biệt với bên ngoài.

Và tôi chợt nhận ra, buồng giam nhà tù cũng chẳng khác gì tình trạng đó.

Tôi rưng rưng nước mắt. “Tôi không biết phải làm gì đây.”

Hẳn trông tôi như sắp ngất đến nơi, bởi ông quản giáo bỗng dịu giọng lại. “Con cô có luật sư chứ?” ông hỏi.

Tôi gật đầu.

“Có lẽ bước đầu tiên là đi tìm anh ta đi,” ông gợi ý.

Từ cột báo của Dì Em:

Những điều giờ tôi mới biết, nhưng tôi ước sao mình biết chúng trước khi có con.

1. Nếu bạn cho miếng bánh mì vào máy cassette, nó sẽ không còn nguyên vẹn.

2. Những túi rác không làm dù được.

3. “Bảo đảm an toàn cho trẻ em” chỉ là một cụm từ tương đối mà thôi.

4. Khi con bạn lên cơn, nó hệt như nam châm vậy. Những đôi mắt người lạ không thể không dán chặt vào bạn và con bạn khi nó lên cơn.

5. Bộ máy tiêu hóa không hấp thụ được những mẩu Lego.

6. Tuyết là một nhóm thức ăn.

7. Bọn trẻ biết lúc nào bạn không lắng nghe chúng.

8. Một bắp cải Brussels bọc trong pho mát vẫn là bắp cải Brussels.

9. Nơi tốt nhất để khóc là trong vòng tay mẹ.

10. Bạn sẽ chẳng bao giờ được như hình ảnh người mẹ bạn mong muốn trở thành.

Ngồi trên xe, tôi gọi cho Oliver Bond. “Họ không cho tôi vào gặp Jacob,” tôi nói.

Và tôi có thể nghe thấy đầu dây bên kia văng vẳng tiếng chó sủa. “Được rồi.”

“Được rồi sao? Tôi không thể gặp con trai tôi, và anh nghĩ thế là được rồi sao?”

“Ý tôi là được rồi, bà cứ cho tôi biết thêm chi tiết đi mà. Chứ không phải là được rồi theo kiểu… Cứ cho tôi biết họ nói gì đi.”

“Tôi không nằm trong danh sách được duyệt vào thăm,” tôi hét lên. “Anh có nghĩ Jacob hiểu là nó cần phải cho nhà tù biết ai có thể và không thể vào gặp nó không hả?”

“Emma,” anh chàng luật sư nói. “Hít một hơi thật sâu đi.”

“Tôi không thể hít sâu cạn gì hết. Jacob không thể ở trong tù.”

“Tôi biết. Tôi rất tiếc vì chuyện đó…”

“Đừng có tiếc nuối gì hết,” tôi cắt lời anh ta. “Mà hãy làm được gì đó đi. Tìm cách cho tôi gặp con trai mình.”

Anh ta im lặng một hồi. “Được rồi,” cuối cùng Oliver cũng mở miệng. “Để tôi xem tôi có thể làm được gì.”

Tôi không thể nói rằng tôi ngạc nhiên khi thấy Theo ở nhà, nhưng tôi quá mệt mỏi đến nỗi không buồn hỏi vì sao nó lại ở đây chứ không chịu đến trường. “Họ không cho mẹ vào gặp Jacob,” tôi nói.

“Chuyện sao vậy?”

Thay vì trả lời, tôi chỉ lắc đầu. Trong ánh sáng mờ mờ của buổi sáng, tôi có thể thấy chút lông măng đang lún phún trên má và cằm của Theo. Và nó nhắc tôi nhớ lại lần đầu tiên thấy Jacob bắt đầu mọc lông nách, và tôi càng thấy chán nản hơn nữa. Chăm sóc cho một đứa trẻ cần bạn vô cùng là một chuyện, nhưng chăm sóc cho một người trưởng thành lại là một chuyện khác.

“Mẹ?” Theo ngập ngừng nói. “Mẹ có nghĩ là anh con đã làm chuyện đó không?”

Không cần suy nghĩ, tôi tát thẳng vào mặt nó.

Nó lùi lại, lảo đảo, lấy tay che má. Rồi nó chạy ra cửa.

“Theo!” Tôi gọi với theo. “Theo!” Nhưng nó đã chạy ra đường rồi.

Tôi nên chạy theo nó, tôi nên xin lỗi. Tôi nên thú nhận rằng lý do tôi đánh nó không phải bởi những lời nó nói, mà là bởi nó đã nói ra những suy nghĩ không nói thành lời của chính tôi.

Tôi tin Jacob có thể giết người sao?

Không.

Câu trả lời quá dễ dàng, như một phản ứng tự nhiên. Tôi đang nói về con trai mình mà. Đứa con nhiều đêm vẫn còn nhờ tôi ấp nó ngủ.

Nhưng tôi cũng nhớ là Jacob đã từng đánh ngã chiếc ghế cao của Theo khi tôi bảo nó không được uống thêm một ly sữa đậu nành chocolate nữa. Tôi có nhớ lần nó ôm xiết một con chuột cho đến chết.

Các bà mẹ phải là người khích lệ lớn nhất của con cái mình. Các bà mẹ phải tin tưởng con cái mình, dù cho có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa. Và nếu cần thiết, các bà mẹ sẽ tự dối lòng mình để làm như thế.

Tôi bước ra cửa, và đi theo hướng Theo vừa chạy. “Theo,” tôi gọi. Giọng tôi bỗng nhiên nghe thật xa lạ.

Hôm nay tôi đã lái xe đến 193 dặm, từ nhà đến Springfield rồi về lại, và lại đến đó lần nữa. Lúc 5:30, tôi lại đứng ở hành lang lối vào thăm tù, nhưng lần này có thêm Oliver Bond đứng bên cạnh. Anh ta đã nhắn tin bảo tôi gặp anh ta ở đây, giải thích rằng dù vẫn chưa xác định được kế hoạch thăm viếng cố định lâu dài, nhưng anh ta đã sắp xếp cho tôi có một buổi viếng thăm đặc biệt ngay hôm nay.

Tôi quá mừng khi nghe thế đến nỗi tôi chẳng để tâm đến lời anh ta nói về chuyện thăm viếng lâu dài.

Lúc đầu, tôi gần như không nhận ra Oliver. Anh ta không mặc vest như hôm qua, mà lại mặc quần jean và áo sơmi cao bồi. Mặc thế này khiến anh ta trông còn trẻ hơn nữa. Tôi liếc xuống áo quần mình, chúng trông như thể tôi chuẩn bị đến một buổi họp nhân viên ở tòa soạn vậy. Sao tôi lại nghĩ mình phải ăn vận chỉnh tề để đến nhà tù cơ chứ?

Oliver dẫn tôi đến phòng tiếp tân. “Cho biết tên?” viên quản giáo nói.

“Emma Hunt,” tôi trả lời.

Ông ta ngước lên. “Không, tên của người bà đến đây để gặp kia.”

“Jacob Hunt,” Oliver xen vào. “Chúng tôi đã sắp xếp một buổi thăm viếng đặc biệt thông qua văn phòng cảnh sát trưởng.”

Viên quản giáo gật đầu và đưa tôi bảng kẹp giấy để tôi ký vào. Ông ta yêu cầu tôi xuất trình thẻ căn cước.

“Đưa chìa khóa xe bà cho ông ta đi,” Oliver nói. “Ông ta sẽ giữ chúng lúc bà vào đó.”

Tôi đưa chùm chìa khóa cho viên quản giáo và bước lại máy dò kim loại. Bỗng sực nhớ ra, tôi ngoái lại, “Anh không vào sao?”

Oliver lắc đầu. “Tôi sẽ đợi ngoài này.”

Một viên quản giáo khác đến, dẫn tôi vào hành lang. Thay vì vào một căn phòng có bàn ghế, ông ta lại dẫn tôi rẽ vào một phòng nhỏ. Lúc đầu tôi nghĩ nó là cái tủ, nhưng rồi nhận ra nó là buồng thăm viếng. Một chiếc ghế đẩu đặt dưới cửa sổ nhìn vào một tấm kính. Máy điện thoại gắn sẵn trên tường. “Tôi nghĩ là có nhầm lẫn rồi,” tôi nói.

“Không đâu,” viên quản giáo bảo. “Viếng thăm không tiếp xúc chỉ dành cho các phạm nhân trong chế độ bảo vệ.”

Rồi ông ta để tôi lại trong căn phòng nhỏ xíu đó. Oliver có biết là tôi sẽ không được gặp trực diện Jacob hay không? Anh ta không cho tôi biết trước là bởi anh ta biết tôi sẽ buồn lòng khi nghe tin, hay là anh chẳng biết gì cả? Và chế độ bảo vệ là gì chứ?

Cảnh cửa bên kia tấm kính mở ra, và Jacob xuất hiện. Viên quản giáo chỉ cho nó chiếc điện thoại trên tường, nhưng Jacob đã thấy tôi bên kia mặt kính rồi. Nó lao đến dí sát bàn tay vào mặt kính.

Máu vương trên áo và trên tóc nó. Trán nó có một đường thâm tím. Đốt ngón tay của nó bị trầy xước. Và nó cứ bứt rứt như điên, tay quắp sát người, và cả thân mình co rúm lại. “Con ơi,” tôi mấp máp. Tôi chỉ vào chiếc điện thoại trên tay mình, rồi chỉ về phía chiếc điện thoại của nó.

Nó không chịu nhấc máy lên. Mà cứ dán chặt bàn tay vào tấm kính ngăn giữa hai mẹ con.

“Nhấc điện thoại lên đi,” tôi hét lên, dù cho biết rằng nó chẳng thể nghe thấy tiếng tôi. “Nhấc máy đi, Jacob!”

Nhưng nó lại nhắm nghiền mắt. Nó ngả người tới và dựa sát má vào tấm kính, dang rộng hai tay hết sức có thể.

Tôi nhận ra rằng nó đang cố ôm tôi.

Tôi đặt điện thoại xuống và bước lại tấm kính. Tôi cũng làm hệt như nó, như thể chúng tôi là phản ảnh của nhau qua tấm gương này.

Có lẽ đấy cũng chính là tình trạng lâu nay của Jacob, khi nó cố gắng kết nối với mọi người nhưng lại không thể nào làm được. Có lẽ lớp màng ngăn một người mắc hội chứng Asperger với phần còn lại của thế giới, không phải là một lớp điện từ vô hình nhưng là một vách ngăn trong suốt cho bạn thấy được những ảo ảnh của cảm xúc nhưng lại không thể có những hành động giao tiếp thực sự.

Jacob bước lùi khỏi tấm kính và ngồi lên ghế. Tôi nhấc điện thoại lên, hy vọng nó sẽ làm theo, nhưng nó cứ nhìn chằm chằm xuống đất. Cuối cùng, nó cũng với tay lấy chiếc điện thoại, và trong một khoảnh khắc tôi thấy một tia sáng vui mừng thường lóe lên trên khuôn mặt nó mỗi khi khám phá ra điều gì đó sửng sốt và muốn kể với tôi. Nó đổi chiếc điện thoại từ tay này sang tay kia, rồi mới đặt lên tai. “Con đã thấy mấy thứ này trong CrimeBusters. Trong tập mà nghi phạm hóa ra là một tên ăn thịt người.”

“Chào con,” tôi nói và cố mỉm một nụ cười.

Nó vừa ngồi vừa lắc lư người. Bàn tay không cầm điện thoại thì cứ mấp máy những ngón tay liên hồi như thể nó đang chơi piano vậy,

“Ai đánh con thế?”

Nó đưa mấy ngón tay khẽ sờ vào trán. “Mẹ? Ta về nhà ngay được không?”

Tôi nhớ chính xác lần cuối cùng Jacob nói với tôi câu này. Đó là sau buổi tốt nghiệp trung học cơ sở, lúc nó mới mười bốn tuổi. Nó đã nhận bằng tốt nghiệp. Mẹ ơi, nó nói, rồi chạy đến khoe với tôi. Những đứa khác nghe thấy nó nói thế liền phá lên cười. Jacob, chúng châm chọc, mẹ mày đến để đưa mày về nhà đấy. Và thế là nó đã biết. Lúc bạn mười bốn tuổi, tỏ ra ngầu trước mặt bạn bè còn quan trọng hơn những cảm xúc nhiệt tình thuần khiết.

“Sớm thôi,” tôi nói, nhưng lời của tôi nghe cứ như một câu hỏi.

Jacob không khóc. Nó không la hét. Nó chỉ thả chiếc điện thoại xuống, rồi cúi đầu.

Tôi liền bật dậy lao về phía nó, lấy bàn tay dí sát vào tấm kính.

Jacob ngẩng đầu lên một chút, rồi lại cúi gằm xuống. Nó đập trán vào thanh sắt ở bệ khung kính. Rồi nó lại đập đầu vào đó lần nữa.

“Jacob. Đừng làm thế!” Nhưng tất nhiên làm sao nó nghe được lời tôi nói. Chiếc điện thoại của nó rơi thõng xuống đung đưa trên sợi dây nghe.

Nó cứ đập đầu xuống bệ, hết lần này đến lần khác. Tôi mở toang cánh cửa buồng thăm viếng. Viên quản giáo đưa tôi vào đang đứng bên ngoài, dựa lưng vào tường. “Giúp tôi,” tôi hét lên và ông ta nhìn qua vai tôi để thấy Jacob đang làm gì, rồi liền chạy xuống hành lang để tìm cách can thiệp.

Qua khung cửa kính, tôi thấy ông ta và một quản giáo nữa ghì chặt cánh tay Jacob và đưa nó ra khỏi buồng. Miệng Jacob méo xệch, nhưng tôi không thể biết nó đang la hét hay đang khóc. Hai cánh tay nó bị bẻ quặt về phía sau để còng lại, rồi một viên quản giáo ấn vào lưng để đẩy nó đi.

Đây là con trai tôi, và họ đang đối xử với nó như một con thú.

Viên quản giáo trở lại ngay để đưa tôi ra. “Cậu ta sẽ ổn cả thôi,” ông ta bảo tôi thế. “Y tá đã cho cậu ta một liều an thần.”

Lúc Jacob còn nhỏ và dễ lên cơn kích động hơn bây giờ, một bác sĩ đã cho nó dùng olanzapine, một loại thuốc an thần. Nó giúp Jacob không còn lên cơn nữa. Nhưng nó cũng khiến Jacob không còn là một con người nữa. Tôi đã thấy nó ngồi trên sàn phòng ngủ, giày chiếc có chiếc không, cứ dán đôi mắt vô hồn vào tường. Khi nó bắt đầu lên cơn, chúng tôi cho nó bỏ thứ thuốc đó, và không bao giờ thử bất kỳ thứ thuốc an thần nào nữa.

Tôi hình dung Jacob giờ đang nằm ngửa trên sàn buồng giam, mắt mở to hết cỡ nhưng hoàn toàn vô cảm, cứ chập chờn nơi lằn ranh vô thức.

Ngay khi tôi vừa đến sảnh tiếp tân, Oliver liền tiến lại với một nụ cười mãn nguyện. “Mọi chuyện thế nào rồi?” anh ta hỏi.

Tôi vừa định mở miệng thì nước mắt tuôn trào.

Tôi đã chiến đấu để Jacob được có Chương trình Giáo dục Đặc biệt. Tôi đã vật nó xuống sàn mỗi khi nó lên cơn ở nơi công cộng. Tôi đã dành cả đời để làm những gì cần phải làm, bởi dù cho bạn có thể vào thiên đàng nhưng ngay cả lúc đó bạn vẫn còn chút gì vương vấn. Tôi đã làm một con người mạnh mẽ, để Jacob không cần phải trở nên mạnh mẽ.

“Emma,” Oliver nói, và tôi hình dung anh ta đã bối rối thế nào khi thấy tôi khóc òa trước mặt mình. Nhưng tôi quá ngạc nhiên, khi anh ta ôm lấy và vuốt tóc tôi. Và càng ngạc nhiên hơn nữa khi tôi để cho anh ta làm thế.

Đây là điều bạn không thể giải thích với một bà mẹ không có đứa con bị tự kỷ: Tất nhiên là tôi thương con trai mình. Tất nhiên tôi không bao giờ muốn sống mà thiếu nó. Nhưng thế không có nghĩa là tôi không mệt mỏi đến kiệt quệ từng phút giây trong đời. Thế không có nghĩa là tôi không lo về tương lai của nó, và về cả tương lai đã mất của tôi. Nhiều lúc tôi miên man tưởng tượng đời mình sẽ thế nào nếu Jacob không mắc chứng Asperger. Và cũng như thần Atlas, tôi nghĩ thật hay biết mấy nếu có ai đó vác lấy gánh nặng gia đình này thay cho tôi.

Trong năm giây, Oliver Bond trở thành người đó.

“Tôi xin lỗi,” tôi nói, và đẩy anh ta ra. “Tôi làm áo anh ướt cả rồi.”

“Vâng, vải cao bồi Woolrich mỏng lắm. Thế là tôi phải trả thêm tiền giặt khô rồi.” Anh ta tiến lại quầy tiếp tân lấy bằng lái và chìa khóa cho tôi, rồi dẫn tôi ra ngoài. “Giờ bà cho tôi biết. Đã có chuyện gì trong đó vậy?” Oliver hỏi.

“Jacob tự hành hạ mình. Hẳn nó đã đập đầu vào thứ gì đó, trán nó bị thâm tím hết cả, phải bọc cả băng gạc, và máu thì dính khắp đầu. Nó bắt đầu làm chuyện đó lần nữa trong buồng thăm viếng, và họ đã tiêm thuốc an thần cho nó. Họ không cho nó dùng thực phẩm chức năng, và tôi không biết nó đang ăn thứ gì, mà cũng có thể nó chẳng chịu ăn gì cả…” tôi nghẹn lời, ngước mắt lên nhìn Oliver. “Anh chưa có con, phải chứ?”

Anh ta đỏ bừng mặt. “Tôi ư? Con cái hả? Ừ thì… chưa.”

“Tôi đã từng chứng kiến con trai tuột khỏi tầm tay tôi. Tôi đã đấu tranh hết sức để kéo nó về, để rồi lại mất nó lần nữa. Dù cho Jacob có đủ năng lực để ra tòa, thì sau hai tuần ở đây, sẽ chẳng còn như vậy nữa đâu. Xin anh đấy,” tôi nài nỉ. “Anh không thể làm gì để đưa nó ra khỏi đây sao?”

Oliver nhìn tôi. Giữa trời lạnh cóng, hơi thở của anh ta cô đọng ngay trước mặt tôi. “Không,” Oliver nói ngay. “Nhưng tôi nghĩ bà có thể đấy.”