← Quay lại trang sách

- 7 - Oliver

Văn phòng luật sư biện hộ công không được gọi là văn phòng luật sư biện hộ công mà lại được đặt cái tên nghe như từ tiểu thuyết Charles Dickens vậy: Văn phòng Tổng Biện hộ. Tuy nhiên, cũng như trong mọi văn phòng luật sư công khác, các nhân viên ở đây đều làm việc quá tải với mức lương thấp.

Sau khi đưa Emma Hunt về nhà và giao nhiệm vụ cho bà, tôi liền đến cái văn phòng kiêm căn hộ của mình để làm cho xong phần nhiệm vụ của tôi. Thor chào mừng tôi bằng cách nhảy lên và bấu vào ngay háng. “Cảm ơn anh bạn,” tôi cười và gỡ nó ra. Nó đang đói nên tôi cho nó ăn chút mỳ Ý còn thừa với thức ăn cho chó, trong lúc tôi tìm kiếm trên mạng thông tin mình cần và gọi một cuộc điện thoại đến cái chỗ gọi là Văn phòng Tổng Biện hộ đó.

Dù cho giờ là 7:00 tối, đã qua giờ làm việc từ lâu rồi, nhưng vẫn có một cô nhấc máy. “Xin chào,” tôi nói. “Tên tôi là Oliver Bond. Tôi là luật sư mới đến Townsend.”

“Giờ chúng tôi đóng cửa rồi…”

“Tôi biết… nhưng tôi là bạn của Janice Roth, và tôi đang cố tìm cô ấy.”

“Cô ấy không còn làm việc ở đây nữa.”

Tôi đã biết thế rồi. Thật ra, tôi cũng biết là Janice Roth vừa cưới một gã tên là Howard Wurtz và họ đã chuyển đến Texas, nơi hắn ta đang chờ việc ở NASA. Tìm kiếm trên hồ sơ công là cộng sự đắc lực nhất của các luật sư biện hộ.

“Ôi trời… thật sao? Buồn quá. Tôi là bạn của cô ấy ở trường luật.”

“Cô ấy lấy chồng rồi,” cô ta nói.

“Cưới Howard phải không?”

“Anh biết anh ta à?”

“Không, nhưng tôi biết cô ấy mê anh ta lắm,” tôi nói. “Nhân tiện, cô cũng là luật sư công à?”

“Đáng buồn, đúng là thế,” cô thở dài. “Còn anh hành nghề tư phải không? Tin tôi đi, anh không chọn nhầm đâu.”

“Không, cô sẽ lên thiên đàng trước tôi đấy.” Tôi cười. “Này, tôi có một câu hỏi, nhanh thôi. Tôi là người mới trong ngành luật hình sự ở Vermont, và tôi vẫn đang cần học hỏi nhiều.”

Tôi là người mới trong cả ngành luật hình sự đấy chứ, nhưng tôi đâu dại gì nói ra.

“Chắc chắn rồi, có gì không?”

“Thân chủ của tôi là một đứa trẻ, mười tám tuổi, và cậu ấy bị tự kỷ. Cậu ấy có gây vài chuyện ồn ào trong phiên khởi tố, và giờ cậu ấy bị giam cho đến tận phiên điều trần về năng lực hình sự. Nhưng cậu ấy không thể sống nổi trong tù. Cậu ấy cứ liên tục tự làm mình bị thương. Có cách nào để đẩy nhanh bánh xe công lý trong vụ này không?”

“Chắc chắn Vermont cực kỳ tệ trong chuyện chăm sóc tâm lý cho các phạm nhân. Họ từng giam phạm nhân trong bệnh viện bang trong thời gian kiểm tra năng lực hình sự, nhưng làm thế tốn nhiều tiền quá, nên giờ hầu hết đều được chuyển đến nhà tù Springfield, bởi ở đó có dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt nhất. Tôi từng có một thân chủ đã bị giam giữ để kiểm tra năng lực hình sự. Anh này có sở thích bôi bóng nhẫy từ đầu đến chân. Đêm đầu tiên ở đó, anh ta dùng nguyên một pound bơ, và lúc tôi đến thăm lại dùng sạch một cục lăn khử mùi.”

“Một chuyến viếng thăm được gặp trực tiếp?”

“Phải, các viên quản giáo chẳng thèm để tâm gì. Tôi cho là họ nghĩ dù gì tệ nhất cũng chỉ là anh ta lấy thứ gì đó bôi đầy người tôi mà thôi. Tôi khuyên anh nên đệ đơn bảo lãnh tại ngoại. Như thế anh lại phải đối mặt với thẩm phán. Nhớ đưa bác sĩ tâm lý hay luật sư của cậu ta ra để hỗ trợ cho lập luận của anh. Nhưng đừng để thân chủ của anh ra trước tòa lần nữa, bởi anh không muốn tái diễn chuyện đáng tiếc đó để khiến thẩm phán nổi giận đâu. Nhiệm vụ chính của anh là thuyết phục thẩm phán rằng cậu ta không nguy hiểm khi tại ngoại, và nếu cậu ta làm loạn như người điên trong phòng xử án, thì coi như vụ của anh đi tong.”

Đệ đơn bảo lãnh tại ngoại, tôi viết vội mấy chữ đó vào tập giấy trước mặt. “Cảm ơn,” tôi nói. “Tuyệt vời.”

“Có gì đâu mà. Này, anh muốn có email của Janice chứ?”

“Chắc chắn rồi,” tôi mỉm cười nói dối. Cô ấy đọc cho, và tôi vờ như đang viết ra giấy.

Gác máy xong, tôi đến bên tủ lạnh và lấy ra một chai Poland Spring. Tôi rót nửa chai vào bát của Thor, rồi nâng chai ăn mừng với nó. “Mừng cho Janice và Howard,” tôi nói.

“Anh Bond,” thẩm phán Cuttings hỏi tôi, “chẳng phải ta đang chờ kết quả đánh giá năng lực hình sự cho vụ này sao?”

“Thưa thẩm phán, tôi không nghĩ có thể làm thế đâu.”

Phòng xử án vắng hoe, ngoại trừ Emma, bác sĩ Murano, và một cô công tố viên tên là Helen Sharp với mái tóc đỏ cắt rất ngắn và mấy chiếc răng khểnh khiến tôi liên tưởng đến ma cà rồng hay giống chó pitbull. Thẩm phán nhìn qua cô ta. “Cô Sharp? Cô thấy thế nào?”

“Tôi không biết gì về vụ này cả, thưa thẩm phán,” cô công tố nói. “Chính xác là sáng nay tôi mới được thông báo về phiên giải trình này. Bị cáo bị khởi tố tội giết người, ngài đã ra lệnh tổ chức một buổi giải trình về năng lực hình sự, và cho đến lúc đó, cậu ta sẽ ở trong nhà tù bang.”

“Với lòng tôn trọng hết mực, thưa thẩm phán,” tôi trả lời, “tôi nghĩ tòa nên lắng nghe mẹ và bác sĩ tâm lý của thân chủ tôi.”

Thẩm phán vẫy tay cho tôi lên, thế là tôi nhẹ nhàng đẩy Emma bước lên bục nhân chứng. Mắt bà có quầng thâm, tay thì run. Tôi thấy bà đưa đôi tay run từ trên bục xuống dưới đùi, để thẩm phán khỏi nhìn thấy. “Vui lòng cho biết tên và địa chỉ của bà,” tôi nói.

“Emma Hunt… 132 Birdseye Lane ở Townsend.”

“Jacob Hunt, bị cáo trong vụ này, là con trai bà?”

“Đúng.”

“Bà có thể cho biết Jacob bao nhiêu tuổi không?”

Emma hắng giọng. “Tháng mười hai vừa rồi, nó được 18 tuổi.”

“Cậu ấy sống ở đâu?”

“Sống với tôi, ở Townsend.”

“Cậu ấy có đi học chứ?” Tôi hỏi.

“Nó đi học ở trường trung học Townsend, năm cuối.”

Tôi nhìn thẳng bà. “Bà Hunt, Jacob có tình trạng sức khỏe cá biệt nào, khiến bà lo ngại về sự an toàn của cậu ấy lúc ở tù không?”

“Có. Jacob được chẩn đoán mắc hội chứng Asperger. Đấy là loại bệnh tự kỷ chức năng cao.”

“Hội chứng Asperger tác động thế nào đến hành vi của Jacob?”

Bà dừng lại một lát, đôi mắt cụp xuống. “Khi nó quyết định làm gì đó, nó cần phải làm điều đó ngay lập tức,” Emma nói. “Nếu không được làm thế, nó trở nên rất kích động. Nó gần như không thể hiện tình cảm gì, dù là vui mừng hay buồn bã, và nó không thể nói chuyện với những đứa trẻ trạc tuổi. Nó tiếp nhận câu chữ theo nghĩa đen, nếu ông bảo nó ngậm miệng mà ăn, thì nó sẽ bảo đó là điều bất khả thi. Nó có những vấn đề về mẫn cảm, như với ánh sáng mạnh, tiếng ồn, và dù chỉ một cái chạm khẽ cũng khiến nó giật bắn mình. Nó không thích bị trở thành trung tâm của mọi sự chú ý. Nó còn biết chính xác tiếp theo sẽ có chuyện gì, và nếu thời gian biểu của nó bị xáo trộn, thì nó trở nên vô cùng lo lắng và hành động của nó càng khiến nó bị mọi người chú ý hơn nữa, chẳng hạn như đập tay bên hông, nói chuyện một mình, hay cứ lặp đi lặp lại những lời thoại trong phim. Khi mọi thứ thực sự trở nên quá sức chịu đựng, nó sẽ đi trốn đâu đó, như trong tủ áo quần hay dưới giường, và nó không nói gì nữa.”

“Được rồi,” thẩm phán Cuttings nói. “Vậy là con trai bà thất thường, muốn làm mọi chuyện theo cách của mình và theo thời gian biểu của mình. Một thiếu niên là thế mà.”

Emma lắc đầu. “Tôi không giải thích cho rõ rồi. Nó hơn cả tính ham thích tự do, hoặc muốn có thời gian biểu. Một thiếu niên bình thường quyết định không tương tác với người khác… còn với Jacob, đó không phải là một chọn lựa.”

“Từ khi cậu ấy vào tù, bà đã thấy cậu có những thay đổi gì?” Tôi hỏi.

Emma giàn giụa nước mắt. “Nó không còn là Jacob,” bà nói. “Nó tự làm đau mình, một cách cố ý. Nó nói chuyện khó khăn hơn. Nó bắt đầu kích động, như đập tay, nhón chân, đi vòng tròn. Tôi đã dành mười lăm năm cố gắng giúp Jacob hòa nhập vào thế giới chứ không để nó cô lập mình… và một ngày trong tù đã đảo ngược tất cả.” Bà nhìn lên thẩm phán. “Tôi chỉ muốn con trai tôi trở lại, trước khi quá muộn để giúp nó.”

“Cảm ơn bà,” tôi nói. “Tôi không cần gì thêm.”

Helen Sharp đứng dậy. Cô ta hẳn phải cao đến 1m8. Tôi không để ý thấy thế lúc cô ta bước vào sao? “Con trai bà… từng ở tù chưa?”

“Chưa!” Emma trở lời.

“Cậu ta từng bị bắt chưa?”

“Chưa.”

“Bà có bao giờ chứng kiến con trai mình có hành vi không đúng mực chưa?”

“Có.” Emma nói. “Khi kế hoạch bị thay đổi phút chót. Hay khi nó buồn bực và không thể nói thành lời.”

“Vậy thì có khả năng hành vi hiện thời của cậu ta chẳng liên quan gì đến việc ở tù, và mọi chuyện chỉ là do cậu ta có mặc cảm tội lỗi vì đã phạm một tội ác khủng khiếp không?”

Mặt Emma bừng bừng. “Nó không bao giờ làm cái chuyện cô đang cáo buộc nó.”

“Có lẽ, nhưng ngay lúc này con trai bà đang bị khởi tố tội giết người cấp độ một. Bà hiểu thế nghĩa là gì, phải không?”

“Có.” Emma nói, mà môi mím chặt.

“Và con trai bà đã được đưa vào chế độ bảo vệ, nên sự an toàn của cậu ta không có vấn đề…”

“Sự an toàn của nó không có vấn đề gì sao, nhưng trước hết, hà cớ gì nó phải nằm trong một buồng giam bít bùng chứ?” Emma bẻ lại lập luận của cô ta, và tôi muốn chạy đến đập tay hưởng ứng với bà ấy quá.

“Tôi không hỏi gì thêm,” cô công tố viên nói.

Và giờ lại đến lượt tôi. “Bên biện hộ xin mời bác sĩ Moon Murano.”

Tên của bà bác sĩ tâm lý này nghe như của một người lớn lên trong nhóm xã hội khép kín vậy. Thật ra suy đoán đó chỉ đúng với bố mẹ bà, còn bà hẳn đã nổi loạn và gia nhập nhóm Cộng hòa Trẻ, bởi bà xuất hiện trước tòa với một bộ vest rất có uy, đôi giày cao gót chót vót, và búi tóc rất chặt như thể nó giúp kéo căng da mặt bà ra vậy. Tôi cho bà xưng tên tuổi địa chỉ, rồi hỏi xem bà biết Jacob như thế nào.

“Tôi là bác sĩ cho Jacob suốt mười lăm năm nay,” bà nói. “Đồng thời cũng chẩn đoán hội chứng Asperger cho cậu ấy.”

“Mời bà cho biết đôi điều về hội chứng Asperger,” tôi nói.

“Hội chứng này được bác sĩ Hans Asperger khám phá vào năm 1944, nhưng cho đến tận cuối thập niên 1980 chúng ta mới biết về nó, và cho đến tận năm 1944, nó vẫn chưa được xếp vào loại hội chứng rối loạn tâm lý. Nói chính xác, đây là một sự rối loạn sinh học thần kinh tác động đến một vài phạm vi phát triển. Không như những đứa trẻ bị tự kỷ khác, trẻ em mắc chứng Asperger rất thông minh, nói liến thoắng, và mong mỏi được xã hội đón nhận… chỉ là chúng không biết cách nào để làm chuyện đó. Chúng chỉ biết nói chuyện một phía, và rất tập trung vào một chủ đề rất hẹp mà chúng yêu thích, chúng thường nói lắp hay nói giọng đều đều. Chúng không thể hiểu được những ngụ ý xã hội hay ngôn ngữ cơ thể, và do đó không thể xác định được cảm giác của những người quanh mình. Do đó, một vài trẻ mắc hội chứng Asperger thường bị xem là lập dị hay kỳ quặc, dẫn đến việc chúng bị cô lập về mặt xã hội.”

“Bác sĩ có thể cho biết, có rất nhiều người trên thế giới này có tính cách lập dị hay kỳ quặc, nhưng theo chẩn đoán thì không mắc hội chứng Asperger phải không?”

“Tất nhiên.”

“Vậy bà chuẩn đoán thế nào?”

“Đây là một giả thuyết về tâm trí thôi. Một đứa trẻ muốn hòa nhập, vô cùng muốn, nhưng lại không thể hiểu được những đứa trẻ khác để kết nối với xã hội.” Bà nhìn lên thẩm phán. “Hội chứng Asperger là một khuyết tật về phát triển, nhưng nó là một chứng không bộc lộ rõ. Ví dụ như, một đứa trẻ mắc hội chứng Asperger trông rất bình thường và thậm chí còn có vẻ vô cùng tiềm năng nữa, nhưng nó gặp phải những khó khăn trong giao tiếp và tương tác xã hội.”

“Bác sĩ, bà có thường xuyên gặp Jacob không?” Tôi hỏi.

“Lúc Jacob còn nhỏ, tôi thường gặp cậu ấy hàng tuần, nhưng giờ thì chỉ mỗi tháng một lần.”

“Và cậu ấy là học sinh khóa cuối ở trường trung học.”

“Đúng là thế.”

“Vậy cậu ấy không bị bất kỳ hạn chế học tập nào do hội chứng Asperger sao?”

“Không,” bác sĩ Murano nói. “Sự thật là, chỉ số IQ của cậu ấy cao hơn cả anh đấy, anh Bond.”

“Tôi không nghi ngờ điều đó đâu,” Helen Sharp nói khẽ.

“Jacob có được đối xử đặc biệt ở trường không?”

“Cậu ấy có một kế hoạch giáo dục riêng, chiếu theo luật cho các trẻ em bị khuyết tật. Mỗi năm bốn lần, tôi và bà Hunt đến gặp hiệu trưởng và các giáo viên của Jacob để xem lại các chiến lược giúp cậu ấy học tập tốt ở trường. Những chuyện tưởng như bình thường với các học sinh trung học lại khiến Jacob rơi vào tình trạng mất kiểm soát.”

“Chẳng hạn như?”

“Jacob không chịu nổi nếu lớp học đột nhiên trở nên huyên náo. Cả ánh đèn chớp. Cả khi bị chạm vào người. Tiếng giấy vày vò. Một chuyện không ngờ, chẳng hạn như khi tắt đèn để chiếu phim. Jacob sẽ bị kích động nếu có một chuyện bất ngờ ngoài dự liệu xảy ra.”

“Vậy những đối xử đặc biệt là để giữ cho Jacob không bị kích động quá mức?”

“Chính xác là thế.”

“Năm học này, cậu ấy thế nào?”

“Trong học kỳ một, cậu ấy chỉ có một điểm B, còn lại toàn là điểm A,” bác sĩ Murano nói.

“Lần cuối cùng bà gặp Jacob trước khi cậu ấy bị giam là lúc nào?”

“Ba tuần trước, buổi khám định kỳ.”

“Lúc đó Jacob thế nào?”

“Ổn lắm, rất ổn,” bác sĩ Murano nói. “Thật ra, tôi đã cho bà Hunt biết là Jacob đã mở lời nói chuyện với tôi thay vì để tôi nói trước.”

“Còn sáng nay?”

“Sáng nay, khi gặp Jacob, tôi như chết lặng. Tôi chưa từng thấy Jacob như thế kể từ năm cậu ấy ba tuổi. Anh cần phải hiểu là trong não cậu ấy có hóa chất gì đó, có thể là nhiễm độc chì do vắcxin…”

Ôi trời.

“…Chỉ nhờ chế độ điều trị y sinh đều đặn và sự tận tụy của Emma Hunt cho con trai mình, mới có thể đưa được Jacob đến được tình trạng như trước khi cậu ấy bị giam. Các vị biết những ai đáng bị tống giam chứ? Những công ty thuốc làm giàu từ vắcxin gây ra một cơn dịch tự kỷ trong những năm 1990…”

“Phản đối!” Tôi nói lớn.

“Anh Bond,” thẩm phán nói, “anh không thể phản đối nhân chứng của anh được.”

Tôi nhăn nhó cười. “Bác sĩ Murano, cảm ơn về chính kiến của bà, nhưng tôi không nghĩ giờ cần phải nói chuyện đó đâu.”

“Có đấy. Tôi đang chứng kiến chuyện đó tái diễn ở đây. Một đứa trẻ dễ thương, có giao tiếp, tương tác, bỗng nhiên cô lập mình, tách mình với thế giới bên ngoài, không tương tác với mọi người. Chúng ta không biết đủ rõ về bộ não người tự kỷ để hiểu điều gì sẽ giúp cho những đứa trẻ này trở lại với chúng ta cũng như vì sao một số lại hòa nhập được với xã hội. Nhưng chúng ta hiểu rằng một sự cố thương tâm nghiêm trọng, như việc ở tù, có thể dẫn đến một sự đảo ngược vĩnh viễn.”

“Bà có lý do nào để tin rằng nếu Jacob được thả và cho về với vòng tay chăm sóc của mẹ, cậu ấy sẽ không gây nguy hại gì cho bản thân cũng như người khác không?”

“Hoàn toàn không có nguy cơ nào cả,” bác sĩ Murano nói. “Cậu ấy theo sát luật đến từng chữ. Thật ra, đấy là khuynh hướng của người mắc hội chứng Asperger.”

“Cảm ơn bác sĩ,” tôi kết lời.

Đến lượt của Helen Sharp, cô ta tiến lên, gõ gõ cây bút lên mặt bàn. “Bác sĩ Murano, bà nghĩ Jacob là một cậu bé phải không.”

“Đúng, tôi cho là thế.”

“Thật ra cậu ta đã được mười tám tuổi rồi.”

“Đúng là vậy.”

“Về mặt pháp lý, cậu ta là người trưởng thành,” Helen nói. “Cậu ta phải chịu trách nhiệm cho hành động của mình, phải chứ?”

“Chúng ta đều biết giữa trách nhiệm pháp lý và năng lực cảm xúc có một sự khác biệt rất lớn mà.”

“Jacob có người giám hộ không?” Helen hỏi.

“Không, cậu ấy có mẹ rồi.”

“Mẹ cậu ta có đăng ký làm người giám hộ pháp lý cho cậu ta không?”

“Không,” bác sĩ Murano nói.

“Bà có đăng ký làm người giám hộ pháp lý cho cậu ta không?”

“Jacob vừa mới được mười tám tuổi hồi tháng trước thôi mà.”

Công tố viên đứng lên. “Bà đã nói với Jacob chuyện tôn trọng triệt để một thời gian biểu cố định là điều vô cùng quan trọng phải không?”

“Là chuyện căn bản tuyệt đối,” vị bác sĩ tâm lý nói. “Không biết chuyện gì đang xảy ra với mình có thể khiến cậu ấy lên cơn.”

“Vậy là Jacob cần phải được duy trì thời gian biểu của mình, để có thể cảm thấy được an toàn?”

“Đúng.”

“Vậy thì tôi cho bà biết, ở Cơ sở Cải huấn Phía Nam của Bang, ngày nào Jacob cũng thức dậy cùng một giờ, ăn cùng một giờ, tắm cùng một giờ, đến thư viện cùng một giờ trong ngày, và đủ chuyện khác nữa. Tại sao chuyện đó không ăn khớp hoàn hảo với thói quen của Jacob cơ chứ?”

“Bởi đó không phải là điều mà cậu ấy quen thuộc. Nó lệch khỏi thời gian biểu thông thường của cậu ấy, như một sự gián đoạn không lường trước vậy, và tôi lo chuyện này sẽ có tác động không thể đảo ngược với cậu ấy.”

Helen cười mỉa. “Nhưng bác sĩ Murano, bà có hiểu là Jacob đã bị cáo buộc tội giết chính gia sư kỹ năng xã hội của cậu ta không?”

“Tôi biết chuyện đó,” bà nói, “và tôi thấy đó là chuyện rất khó tin.”

“Bà có hiểu là hiện thời, các bằng chứng đều chống lại Jacob không?” Helen hỏi.

“Không.”

“Vậy là bà giả định Jacob có tội hay vô tội, chỉ dựa trên những gì bà biết về Jacob, chứ không phải trên chứng cứ.”

Bác sĩ Murano nhíu mày. “Còn cô chỉ quy kết như thế dựa vào chứng cứ, chứ chưa từng gặp Jacob.”

Ôi, đau quá, tôi nghĩ và cười sung sướng.

“Tôi không hỏi gì thêm,” Helen ấp úng.

Thẩm phán Cuttings nhìn bác sĩ Murano bước xuống khỏi bục nhân chứng, rồi hỏi: “Bên công tố viên có nhân chứng nào không?”

“Thưa thẩm phán, chúng tôi muốn tạm hoãn phiên này, do chúng tôi chỉ được thông báo phút chót…”

“Nếu cô muốn kiến nghị xem xét lại, thì được, miễn là cần phải thế,” thẩm phán nói. “Các luật sư, tôi muốn nghe phần lập luận kết của các vị.”

Tôi đứng dậy. “Thưa thẩm phán, chúng tôi muốn có phiên trình bày về năng lực hình sự, và ngài có thể xem xét lại chuyện bảo lãnh tại ngoại sau phiên đó. Nhưng lúc này, tôi có một thân chủ trẻ tuổi đang ngày càng suy nhược về mặt tâm lý. Tôi kiến nghị ngài cho cậu ấy được tại ngoại. Ngài cứ áp đặt các quy định giới hạn cho cậu ấy, mẹ cậu ấy, cho bác sĩ tâm lý của cậu ấy, và cho cả tôi nữa để kiểm soát. Nếu ngài muốn tôi đưa cậu ấy đến đây trình diện ngài mỗi ngày? Được, tôi sẽ đưa cậu ấy đến. Jacob Hunt có quyền được bảo lãnh tại ngoại chiếu theo hiến pháp, và cậu ấy còn có nhân quyền nữa. Nếu cậu ấy bị giữ trong tù thêm một thời gian nữa, tôi nghĩ chuyện đó sẽ hủy hoại cậu ấy. Tôi kiến nghị, không, đúng ra là tôi nài xin ngài ra một giá bảo lãnh thích hợp và thả thân chủ của tôi ra cho đến sau phiên trình bày năng lực hình sự.”

Helen trợn mắt nhìn tôi, rồi cô ta đứng lên.

“Thưa thẩm phán, Jacob Hunt đã bị khởi tố tội giết người cấp độ một, đã giết một người phụ nữ mà cậu ta quen biết và có lẽ còn thích nữa. Cô ấy là giáo viên của cậu ta, họ còn đi chơi với nhau. Đồng thời có nhiều tình tiết của vụ án này cho thấy cậu ta có tội, dù tôi xin không đi vào chi tiết, bao gồm những tuyên bố của bị cáo với cảnh sát, và chứng cứ pháp y có căn cứ liên hệ cậu ta với hiện trường vụ án. Chúng tôi tin đây là một vụ rất, rất lớn cho Bang này. Nếu bị cáo đang có những hành động tồi tệ ngay cả trước phiên trình bày năng lực hình sự, thì thưa thẩm phán, ngài có thể hình dung cậu ta sẽ thôi thúc muốn chạy trốn đến thế nào nếu ngài để cậu ta tại ngoại. Bố mẹ của nạn nhân đang khủng hoảng vì mất đi con gái mình, và họ kinh sợ khi người này được thả ra, một con người đã có những hành vi bạo lực trong buồng giam, một con người không biết phân biệt đúng sai là gì. Chúng tôi kiến nghị không cho phép tại ngoại cho đến khi xong phiên trình bày năng lực hình sự.”

Thẩm phán nhìn về phía Emma. “Bà Hunt,” ông hỏi. “Bà còn có người con nào nữa không?”

“Vâng, thưa ngài. Tôi còn một con trai mười lăm tuổi.”

“Tôi cho là nó cần được chăm sóc, chưa nói đến chuyện ăn uống và đi lại.”

“Đúng.”

“Nếu bị cáo được tại ngoại về sống ở nhà, thì bà sẽ phải chịu trách nhiệm với cậu ta 24 tiếng một ngày, và chuyện này còn có thể tác động rất lớn đến tự do đi lại của bà, cũng như đến việc chăm sóc cho đứa con trai thứ của bà, bà hiểu rõ điều này chứ?”

“Tôi sẽ làm bất kỳ điều gì tôi phải làm để đưa được Jacob về nhà,” Emma nói.

Thẩm phán Cuttings gỡ kính ra. “Anh Bond, tôi sẽ thả thân chủ của anh với một số điều kiện nhất định. Thứ nhất, mẹ cậu ta sẽ phải lấy ngôi nhà của gia đình làm thế chấp bảo lãnh. Thứ hai, tôi yêu cầu bị cáo đeo máy giám sát tại gia, không được đến trường, phải luôn luôn ở trong nhà, và phải luôn có mẹ hay một người trưởng thành trên 25 tuổi ở cạnh cậu ta. Cậu ta không được rời khỏi bang. Cậu ta phải ký giấy miễn dẫn độ và cần phải gặp bác sĩ Murano cũng như tuân theo mọi hướng dẫn của bà ấy, bao gồm vấn đề thuốc men. Cuối cùng, cậu ta sẽ phải tham gia tiến trình đánh giá năng lực hình sự, và anh sẽ liên lạc với công tố viên để quyết định thời gian và địa điểm cho chuyện này. Công tố viên không cần đệ đơn kiến nghị, tôi dự định sẽ xem xét lại vấn đề tại ngoại vào ngày có kết quả đánh giá năng lực hình sự.”

Helen ngả người ra. “Tận hưởng thời gian trì hoãn của anh đi nhé,” cô nói với qua. “Vụ này tôi thắng chắc rồi.”

“Chỉ bởi cô là một tay kiện tướng đấy,” tôi mỉa.

“Tôi xin lỗi?”

“Tôi nói là cô vẫn chưa gặp thân chủ của tôi mà.”

Cô ta nhíu mày rồi bước ra khỏi phòng xử án.

Sau lưng tôi, Emma đang ôm chặt bác sĩ Murano. Bà ngoái mắt nhìn tôi. “Cảm ơn anh rất nhiều,” bà nói mà giọng cứ đứt quãng.

Tôi nhún vai, như thể lần nào tôi cũng chiến thắng vinh quang thế này. Thật sự, lúc này mồ hôi đã đổ ướt cả áo tôi. “Có sao đâu,” tôi trả lời.

Tôi đưa Emma đến văn phòng thư ký để điền giấy tờ và lấy theo những giấy tờ cần Jacob ký. “Hẹn gặp bà ở hành lang,” tôi nói.

Dù cho Jacob không có ở tòa, nhưng cậu ấy phải ở đây lúc chúng tôi bàn luận thay mặt cho cậu ấy. Và giờ, cậu ấy cần phải ký các điều kiện tại ngoại và giấy miễn dẫn độ.

Vậy mà tôi vẫn chưa thấy cậu ấy đến. Nói thật lòng, tôi hơi sợ phải gặp Jacob. Lời chứng của mẹ Jacob và bác sĩ Murano, khiến tôi nghĩ cậu ấy giống như người thực vật vậy.

Khi tôi đến bên buồng giam, Jacob đang nằm trên sàn, hai gối co lại sát ngực. Đầu thì quấn băng. Lớp da quanh mắt chuyển màu xanh đen, và tóc thì bết cả lại.

Chúa ơi, nếu tôi đưa cậu ấy đến phòng xử án, thì hẳn cậu ấy sẽ được cho ra khỏi đây trong nháy mắt. “Jacob” tôi nói khẽ. “Jacob, là tôi đây, Oliver, Luật sư của cậu.”

Jacob chẳng động đậy chút nào. Đôi mắt cậu ấy mở to, nhưng khi tôi tiến lại gần, cậu ấy vẫn không chớp mắt. Tôi ra hiệu cho quản giáo mở cửa buồng, rồi đi vào ngồi xổm cạnh Jacob. “Tôi có một số giấy tờ cần cậu ký.”

Cậu ấy thì thầm gì đó, và tôi phải cúi sát để nghe.

“Một?” Tôi lặp lại câu hỏi vừa nghe được, rồi tự trả lời luôn. “Thật ra là có vài tờ đấy. Nhưng này, cậu không phải trở vào tù nữa, anh bạn à. Tin tốt rồi.”

Dù gì, đến bây giờ thế là tốt quá rồi.

Jacob lại tiếp tục lầm bầm. Tôi nghe như thể cậu ta đang đếm một, hai, ba, năm.

“Cậu đang đếm. Cậu đang đếm số tờ à?” Tôi trân mắt nhìn Jacob. Tình huống hiện giờ như thể tôi đang chơi trò đố chữ với một người không có tay chân vậy.

“Ăn,” Jacob nói, rõ ràng rành mạch.

Cậu ấy đang đói. Hay là đã đói từ lâu rồi?

“Jacob.” Tôi nói quả quyết. “Đi thôi.” Tôi đưa tay định đỡ Jacob dậy, nhưng rồi thấy toàn bộ cơ thể cậu ấy căng lên trước cả khi ngón tay tôi chạm đến.

Nên tôi đứng lại, ngồi bệt xuống sàn.

“Một,” tôi nói.

Jacob chớp mắt một cái.

“Hai.”

Cậu ấy lại chớp mắt ba lần.

Ngay lúc đó tôi nhận ra là chúng tôi đang nói chuyện. Chỉ là chúng tôi không dùng ngôn từ.

Một, một, hai, ba. Mà sao lại là năm chứ không phải bốn?

Tôi lấy bút trong túi ra, viết dãy số lên tay mình, và nhận ra mẫu thức của nó, Không phải là ăn, mà là tám. “Mười một,” tôi nói mà nhìn Jacob không chớp mắt, “Mười chín.”

Jacob bắt đầu trở mình. “Ký ở đây,” tôi nói, “và tôi sẽ đưa cậu về với mẹ.” Tôi đẩy giấy tờ đến trước mặt Jacob. Rồi chuyền cả cây viết theo.

Lúc đầu, Jacob không nhúc nhích gì.

Nhưng rồi, chầm chậm, cậu ấy bắt đầu cử động.