VỤ 6: CẮN TÔI ĐI PHẦN VI - 1 - Rich
Có lẽ bạn biết Ted Bundy là ai, một tay giết người hàng loạt, được cho là có liên quan đến ba mươi sáu nạn nhân, dù cho các chuyên gia tin rằng con số của hắn phải đến cả trăm người. Hắn tiếp cận phụ nữ ở nơi công cộng, lấy lòng tin của cô ấy bằng cách giả vờ bị thương hay tự nhận là một nhân vật của chính quyền, rồi ra tay bắt cóc cô. Một khi nạn nhân đã vào trong xe, hắn ra tay bằng cách lấy xà beng đập vào đầu cô. Trừ một người duy nhất, còn lại tất cả các nạn nhân đều chết vì bị bóp cổ. Nhiều thi thể được phát hiện xa nơi mất tích nhiều dặm. Lúc ở trong buồng giam tử tù, Bundy thừa nhận rằng hắn đã chặt đầu hơn chục nạn nhân, và giữ lại đầu họ trong nhà hắn một thời gian. Hắn đến thăm các thi thể, để trang điểm hoặc làm tình với xác chết. Hắn giữ lại những tấm ảnh, áo quần của nạn nhân làm kỷ niệm. Đến tận ngày nay, vẫn chưa xác định được con số nạn nhân do tay hắn giết.
Hầu hết mọi người tin rằng lời chứng chuyên ngành của bác sĩ Richard Souviron, một nha sĩ pháp y, là căn cứ để kết tội và cuối cùng là tử hình tên Bundy. Người ta tìm thấy những vết cắn trên mông của nạn nhân Lisa Levy, vết đầu tiên là một vết răng hoàn chỉnh, vết thứ hai là một vết cắn nghiêng, nên thấy được hai điểm nổi bật của hàm răng dưới. Từ đó cảnh sát có thêm cơ sở để đối chiếu vết cắn này với các hồ sơ răng miệng, tăng thêm tỷ lệ tìm được hàm răng trùng khớp.
Có được phân tích vết cắn này là nhờ một điều tra viên hiện trường lão luyện đặc biệt đã chụp lại những tấm ảnh vết cắn kèm thước đo để xác định tỷ lệ. Không có những tấm ảnh đó, tên Bundy hẳn đã thoát tội rồi. Đến thời gian đưa Bundy ra xét xử, vết cắn đó đã bị phân hủy đến mức không thể nhận ra, nên bằng chứng duy nhất với hình dạng và kích thước ban đầu của nó chỉ có thể có được nhờ vào tấm ảnh đó.
* Rich“Anh có muốn nhận vinh dự này không?” Basil hỏi tôi.
Chúng tôi đang đứng trong phòng tắm của Jessica Ogilvy, là tôi và hai nhân viên điều tra hiện trường đang rà soát căn nhà để tìm chứng cứ. Marcy phủ giấy đen trên những khung cửa sổ, và cầm máy ảnh sẵn sàng. Basil thì pha Luminol để phun lên bể tắm, sàn, tường. Tôi đưa tay tắt hết đèn và chúng tôi chìm trong bóng tối.
Basil phun Luminol, và đột nhiên phòng tắm sáng ngời như cây thông Noel, những vết vữa giữa các viên gạch rực lên một màu xanh huỳnh quang.
“Khủng thật,” Marcy nói khẽ. “Tôi thích quá mỗi khi ta làm đúng.”
Luminol phát sáng khi gặp đúng chất xúc tác, và trong trường hợp này, là chất sắt trong máu. Jacob Hunt hẳn đủ thông minh để tẩy sạch đống hỗn độn cậu ta để lại sau khi sát hại Jess Ogilvy, nhưng vẫn còn những vết máu sẽ là bằng chứng buộc tội cậu ta trước tòa.
“Làm tốt lắm,” tôi nói, còn Marcy thì hăng hái chạy quanh chụp hình. Nếu vết máu này khớp với máu của nạn nhân, thì đây là mảnh ghép cuối cùng giúp chúng tôi xác định rõ tội ác này. “Jacob Hunt đến theo hẹn với nạn nhân,” tôi trầm tư suy tưởng. “Họ đánh nhau, có lẽ do đó đã làm đổ giá đĩa CD, chồng thư, và vài chiếc ghế đẩu. Rồi cậu ta dồn cô ấy vào góc tường, có lẽ là ngay đây, đánh cô và cuối cùng ra một đòn hạ sát cô.” Khi Luminol không còn phát sáng nữa, tôi đưa tay tắt đèn. “Cậu ta tẩy sạch phòng tắm, rồi tắm rửa cho nạn nhân, mặc đồ cho cô rồi lôi cô đến cống nước.”
Tôi liếc nhìn xuống sàn. Dưới ánh sáng thường, bạn không thể thấy được Luminol, và cũng không thể thấy được vết máu nào. “Nhưng Jacob là một chuyên gia điều tra hiện trường…” tôi trầm ngâm.
Basil cười khúc khích. “Tôi đã đọc một bài báo trên tờ Esquire nói rằng phụ nữ thấy cảnh sát chúng ta hấp dẫn hơn lính cứu hỏa…”
“Không phải phụ nữ nào cũng thế đâu,” Marcy chỉnh.
“Và do đó,” tôi làm ngơ họ, tiếp tục nói, “cậu ta trở lại hiện trường vụ án và quyết định xóa dấu vết. Vấn đề là, cậu ta thông minh, nên muốn đổ tội này cho Mark Maguire. Vì thế cậu ta tự nhủ, Nếu Mark làm chuyện này, hắn ta sẽ cố xóa dấu vết như thế nào? Cố làm như đây là một vụ bắt cóc. Vì thế cậu ta mang đôi giày của Mark Maguire và đi quanh nhà, rồi cắt kính cửa sổ. Cậu ta dọn dẹp giá đĩa CD, chồng thư, và mấy chiếc ghế đẩu. Nhưng cậu ta cũng biết là Mark đủ cứng để khiến các điều tra viên lạc hướng một chút, nên cậu ta đã viết lời nhắn cho người đưa thư, và gói đồ đạc của nạn nhân vào balô rồi đem theo mình, cả hai việc đều ám chỉ rằng Jess đã bỏ đi theo ý của cô ấy chứ không phải bị bắt đi.”
“Tôi theo không kịp rồi đấy,” Marcy nói.
“Jacob Hunt làm giả hiện trường vụ án để trông như ai đó khác đã gây ra chuyện này, một người nào đó cố làm giả hiện trường để che dấu tội ác. Thật thông minh vô cùng.” Tôi thở dài.
“Vậy anh nghĩ sao?” Basil hỏi. “Bồ bịch cãi nhau?”
Tôi lắc đầu. “Tôi không biết.” Đến giờ thì không.
Marcy nhún vai. “Những thủ phạm quá khốn nạn dường như chẳng bao giờ muốn hé môi.”
“Nhưng may mà nạn nhân thì có,” tôi nói.
Lúc tôi mang vội mặt nạ và dép vào phòng, thì Wayne Nussbaum đang kê khuỷu tay vào khoang ngực trống hoác của một xác chết từ Swanton. “Tôi không thể ở đây thêm nữa,” tôi nói. Tôi đã chôn chân trong văn phòng của Wayne suốt bốn lăm phút rồi.
“Anh ta cũng thế,” Wayne nói, và tôi để ý thấy những vết dây trên cổ xác chết. “Nghe này, lúc đầu tôi tưởng một vụ còn phân vân giữa tự vẫn và giết người, sẽ không khiến tôi mất nhiều thời gian đến thế.” Ông cầm trên tay một bộ phận đỏ au, mắt hí hửng. “Lại đây nào, thám tử. Cho anh một quả tim này.”
Tôi còn chẳng nhếch miệng cười. “Đấy là thứ ông học ở trường làm hề đấy à?”
“Phải. Tôi đổi nghề sau bài học Ném bánh 101.” Ông quay qua phụ tá của mình. Tên cô ấy là Lila, và cô từng cố tán tỉnh tôi bằng cách mời tôi đến dự một buổi tiệc ở South Burlington. Nhưng thay vì quyến rũ được tôi, buổi tiệc đó chỉ khiến tôi thấy mình thực sự đã già rồi.
“Lila,” ông nói, “cho tôi mười phút.”
Ngay khi vừa ra khỏi phòng vô trùng, ông đã tháo găng tay, áo choàng và dép một lượt, rồi bước theo tôi đến văn phòng của ông. Wayne lục lọi đống giấy tờ trên bàn cho đến khi tôi thoáng thấy cái tên Jess Ogilvy trên một bộ hồ sơ. “Tôi không biết phải nói gì với anh nữa, bởi báo cáo của tôi không cho thấy điều gì rõ ràng rành rành cả,” Wayne vừa nói vừa ngồi xuống. “Nguyên nhân tử vong là tụ máu dưới màng cứng não, do xương hộp sọ bị rạn. Cậu ta đánh cô ấy quá mạnh, khiến xương sọ đâm vào não giết chết cô ấy.”
Cái này thì tôi biết rồi. Nhưng đấy không thực sự là lý do khiến Jess Ogilvy phải chết tức tưởi. Mà là bởi cô ấy đã nói gì đó với Jacob Hunt, khiến cậu ta lên cơn điên. Cũng có thể là do cô ấy đã không chịu nói gì đó với cậu ta.
Rất dễ để suy đoán rằng có khả năng cậu ta đã phải lòng cô gia sư của mình, nhưng bị khước từ, nên đã lao vào cô ấy.
Wayne lướt qua bản báo cáo của ông. “Vết rách ở lưng cô ấy, những vết kéo, xuất hiện sau khi cô ấy đã chết. Tôi cho là do lúc cậu ta di chuyển thi thể đi. Còn có những vết thâm tím, nhưng chúng xuất hiện trước khi cô ấy chết. Tất nhiên là cả những vết trên mặt cũng thế. Còn có vài vết trên cẳng tay và cổ họng cô ấy nữa.”
“Không có tinh dịch sao?”
Wayne lắc đầu. “Không.”
“Có thể cậu ta đã đeo bao cao su?”
“Khả năng cao là không, chúng tôi không tìm thấy bất kỳ lông vùng kín hay bằng chứng nào liên hệ với hành vi cưỡng hiếp cả.”
“Nhưng quần lót của cô ấy bị mặc ngược mà.”
“Phải, nhưng như thế chỉ có thể chứng minh là hung thủ của anh chưa từng đi mua quần lót phụ nữ, chứ không thể nói rằng cậu ta là kẻ hiếp dâm.”
“Còn những vết thâm tím,” tôi hỏi tiếp. “Ông có biết thời gian chúng xuất hiện không?”
“Cùng trong vòng một ngày, hoặc hơn,” Wayne trả lời. “Không có kỹ thuật nào đáng tin một trăm phần trăm để xác định thời gian của một vết thâm tím khi dựa trên màu sắc và các phương pháp hóa mô miễn dịch. Nói tóm lại, cơ thể mọi người có tốc độ phục hồi nhanh chậm khác nhau, nên dù tôi có thể nhìn hai vết thâm tím và cho biết vết nào có trước vết kia một tuần, nhưng không có cách nào để nói rằng vết này có lúc 9:00 sáng và vết kia có từ lúc giữa trưa.”
“Vậy có thể nói, những vết thắt quanh cổ, và những vết thâm tím hình vân tay trên tay cô ấy, có thể xảy ra chỉ vài phút trước khi cô ấy chết?”
“Hoặc là nhiều giờ đấy.” Wayne thả tập hồ sơ lên một chồng giấy bên cạnh bàn. “Có thể cậu ta đã đe dọa cô ấy, rồi quay trở lại đánh cô ấy đến chết.”
“Hoặc có thể là hai người vào hai thời điểm khác nhau.” Tôi nói rồi nhìn thẳng mắt Wayne.
“Vậy thì Jessica Ogilvy thực sự đã gặp phải một ngày tồi tệ nhất đời rồi. Tôi cho rằng anh có thể khởi tố cậu bạn trai về tội xâm phạm thân thể. Dù cho chuyện đó có vẻ không cần thiết và dễ gây thêm phiền phức, nếu như thủ phạm của anh đã thú nhận mình chính là người di chuyển thi thể đi.”
“Phải. Tôi biết mà.” Tôi chỉ không hiểu vì sao tôi lại băn khoăn chuyện này đến vậy. “Tôi hỏi ông một câu được không?”
“Chắc chắn rồi.”
“Tại sao ông không làm hề nữa?”
“Chẳng còn gì vui vẻ nữa. Bọn trẻ hét vào mặt tôi, táng cả cái bánh sinh nhật vào người tôi…” Wayne nhún vai. “Những khách hàng của tôi lúc này dễ chịu hơn.”
“Có lẽ thế thật.”
Wayne nhìn tôi một hồi lâu, rồi nói. “Anh có biết đâu là vụ khó nhất tôi từng làm không? Một vụ tai nạn xe cộ. Một bà lái chiếc SUV trên đường cao tốc, và đứa con nhỏ của bà ta bị rơi khỏi ghế, bị tổn thương xương sống nghiêm trọng và chết. Họ đưa cả chiếc ghế xe vào nhà xác. Tôi phải đặt đứa bé đã chết đó ngồi vào ghế, để tái diễn lại cảnh bà mẹ đã không thắt dây an toàn đúng cách, khiến cho đứa bé bị ngã chết.” Wayne đứng dậy. “Đôi lúc anh phải nhắc nhở bản thân rằng, anh làm việc này là vì nạn nhân.”
Tôi gật đầu. Và tôi không hiểu vì sao khi nghe câu đó, tôi không nghĩ về Jess Ogilvy mà là về Jacob Hunt.
Cậu bé ra mở cửa trông chẳng có nét gì là em trai của Jacob Hunt cả, nhưng ngay khi tôi vừa trình phù hiệu, thì mặt cậu ta tái mét. “Tôi là Thám tử Matson. Mẹ cậu có nhà chứ?”
“Tôi… tôi viện đến quyền im lặng,” thằng nhóc nói.
“Hay đấy,” tôi bảo nó. “Nhưng vừa rồi tôi đâu có hỏi để điều tra.”
“Ai ngoài kia vậy?” Tôi nghe tiếng Emma, rồi cô xuất hiện. Ngay khi nhận ra tôi, cô liền nhíu mày. “Anh đến để kiểm tra tôi sao? Vậy thì tôi đây, với bọn trẻ, đúng theo lời thẩm phán. Theo, đóng cửa đi. Và anh,” cô nghiêm giọng, “có thể nói chuyện với luật sư của chúng tôi.”
Tôi kịp chèn chân vào trước khi cánh cửa đóng sầm. “Tôi có lệnh khám xét.” Tôi cầm lên tờ giấy cho phép tôi lục soát phòng ngủ của Jacob và lấy về bất kỳ thứ gì có thể là bằng chứng.
Emma lấy tờ giấy từ tay tôi, đọc kỹ, và cánh cửa lại được mở ra lần nữa. Cô quay lưng bước vào nhà mà chẳng nói chẳng rằng. Tôi theo sau cô, dừng lại khi cô nhấc điện thoại trong bếp và gọi cho anh chàng luật sư mặt búng ra sữa. “Phải, anh ta đang ở đây,” cô nói mà lấy tay che kín ống nghe. “Anh ta đã cho tôi xem lệnh khám xét.”
Cô im lặng một hồi. “Có vẻ như tôi không còn lựa chọn nào khác.”
“Tôi có thể cho bà biết trước thế mà,” tôi hớn hở nói, nhưng cô quay đi và bước lên lầu.
Tôi theo sát sau lưng cô đến tận cửa. “Jacob? Con yêu?” Tôi đứng ở hành lang, và để Emma ngọt nhẹ với con trai mình. Tôi nghe loáng thoáng vài chữ bắt buộc và pháp lý, rồi cô và Jacob đi ra.
Tôi ngạc nhiên quá đỗi. Mặt cậu ta giờ chỉ toàn màu đen bầm và xanh xám, một miếng băng bướm ẩn sau lớp tóc. “Jacob,” tôi nói. “Cậu sao rồi?”
“Trông nó sao nào?” Emma cắt lời tôi ngay.
Helen Sharp đã báo cho tôi là Jacob đã được thả về gia đình trong thời gian chờ phiên trình bày năng lực hình sự. Cô ấy đã nói rằng Có lẽ Jacob không giỏi lắm chuyện ở tù. Chúng tôi đã bật cười khi nghe thế. Có ai lại giỏi chuyện ở tù chứ?
Công việc thám tử của tôi là lần ra hậu trường và tìm những sợi dây đang điều khiển con rối. Đôi khi thế có nghĩa là thu thập chứng cứ, ban bố lệnh bắt giữ, tìm thông tin nhân thân, hoặc tiến hành thẩm vấn. Nhưng như thế thường cũng có nghĩa là tôi bỏ lỡ những gì đang diễn ra trên sân khấu. Bắt giữ Jacob và đưa cậu ta đi khởi tố là một chuyện, nhưng gặp trực tiếp cậu ta trong tình trạng thế này lại là một chuyện khác.
Cậu ta chẳng có chút gì giống cậu bé tôi đã thẩm vấn cách đây một tuần. Chẳng lạ gì khi mẹ cậu ta muốn lấy đầu tôi.
Emma cầm tay Jacob để dắt nó xuống lầu, nhưng rồi chúng tôi đều sững người khi cái giọng cao mảnh của cậu ta vang lên. “Khoan,” Jacob nói khẽ.
Emma quay lại, cố tỏ ra vui vẻ. “Jacob? Con vừa nói gì à?”
Tôi có cảm giác, nếu như cậu ta vừa nói gì đó, thì cũng có gì quan trọng đâu. Jacob gật đầu, môi mấp máy một hồi mới thốt ra được một chữ. “Con muốn…”
“Con muốn gì, con yêu? Mẹ sẽ lấy cho con.”
“Con muốn xem.”
Emma quay lại nhìn tôi, ra dấu muốn hỏi xem thế có được không.
“Không thể được,” tôi nói thẳng. “Cậu ta được ở trong nhà, nhưng không được quanh quẩn trong phòng lúc tôi lục soát.”
“Tôi nói chuyện với anh một lát được chứ?” cô hỏi thẳng, rồi quay lưng bước vào phòng ngủ của Jacob, tôi bèn theo sau, để cậu ta lại một mình trên hành lang. “Anh có chút khái niệm nào về tình cảnh như địa ngục khi phải nhìn con của mình trở nên hoàn toàn vô cảm không?”
“Không, nhưng…”
“Còn với tôi, là lần thứ hai rồi. Tôi đã không thể lôi nó dậy khỏi giường đấy,” cô nói. “Và theo tôi nhớ, lời cuối cùng anh nói với tôi là bảo tôi có thể tin anh. Tôi đã tin, và anh đâm sau lưng tôi, bắt con trai tôi sau khi tôi dâng nó tận miệng cho anh. Theo những gì tôi biết, thì con trai tôi sẽ không lâm vào hoàn cảnh này nếu như không có anh. Vậy nên nếu xem anh lấy đồ của nó và nhét vào những chiếc hộp chết tiệt của anh, sẽ giúp nó hồi tỉnh, thì tôi hy vọng với chút tử tế bình thường nhất anh sẽ cho nó được làm vậy.”
Nói hết câu, thì mắt cô cũng rơm rớm và hai má đỏ bừng. Tôi mở miệng, định nói về chuyện lục soát và tịch thu, chuyện Tòa án Tối cao, nhưng rồi lại đổi ý. “Jacob?” Tôi ló đầu ra cửa. “Vào đi.”
Cậu ta ngồi trên giường, còn Emma thì khoanh tay đứng dựa cửa. “Tôi… chỉ xem xét một vòng thôi,” tôi ngại ngùng nói.
Jacob Hunt là một người ngăn nắp đến lập dị. Cứ mỗi dịp cuối tuần Sasha đến ở với tôi, là tôi lại thấy những chiếc vớ nhỏ xíu nhét vào góc nệm ghế bành, những miếng ngũ cốc rơi vãi trong bếp, hoặc sách báo vương vãi khắp phòng khách. Nhưng tôi thấy có lẽ Jacob thì không. Chăn nệm của cậu ta được xếp vuông vắn như trong quân đội. Tủ áo quần được bài trí hệt như khi người ta quay quảng cáo. Với những gì tôi thấy, thì tôi cho là cậu ta bị rối loạn ám ảnh nặng rồi. Ngoại trừ một thứ. Quyển vở toán của Jacob đang mở sẵn. Nó là một thảm họa. Các trang giấy thì quăn queo, nhiều tờ long ra ngoài, chữ viết thì rối như một tác phẩm nghệ thuật hiện đại. Chiếc bảng trên tường cũng thế, nó bị dán đầy giấy, hình và ảnh, chồng chéo lên nhau. Đĩa và ly tách bẩn chất cả đống trên bàn.
Đối diện với chiếc bàn, là một cái tủ nhỏ với một cái chậu cá úp ngược được chế lại trông hệt như một tủ xông hơi. Jacob thấy tôi đang nhìn nó. “Cậu lấy vân tay từ cái gì thế?” Tôi hỏi.
“Đừng trả lời câu đó, Jacob,” Emma xen vào.
“Bàn chải đánh răng,” cậu ta trả lời. “Ly tách. Tôi từng dùng bột nam châm lấy được một phần vân tay rất chuẩn từ tập giấy nâu.”
Cả tôi và mẹ cậu ta đều tròn mắt. Emma thì có lẽ là bởi mấy giây vừa qua cậu ta còn nói nhiều hơn suốt ba ngày trước. Còn tôi thì ngạc nhiên bởi có nhiều nhân viên điều tra hiện trường chẳng biết kỳ thuật lấy dấu vân tay từ những bề mặt xốp.
Tôi nhấc thùng rác dưới bàn và bắt đầu bới xem. Có vài tờ giấy viết nháp bài tập làm văn. Một miếng giấy gói kẹo cao su. Điều bất thường của đống rác này, không phải là có vật gì đó lạ lùng, mà là trật tự của chúng. Thay vì bị vày vò, mỗi mảnh giấy rác đều được gấp lại tám lần. Ngay cả mảnh giấy gói kẹo nhỏ xíu. Thùng rác cũng đầy ứ, hệt như giỏ đồ giặt vậy.
Thứ đầu tiên tôi tịch thu là một máy dò đài cảnh sát. Giờ tôi biết vì sao cậu ta lại tìm được đến hiện trường vụ anh chàng hạ thân nhiệt rồi. Tay Jacob bắt đầu rung mạnh hơn. “Cái đó… là của tôi.”
Emma đặt tay lên vai cậu ta. “Nhớ mẹ dặn gì không?”
Tôi nhanh chóng lấy luôn những thứ nằm trong tủ xông hơi tự chế, là một cái tách, một tấm gương, rồi lấy luôn cả cái bể cá. Tôi nhìn xuống gầm giường, nhưng chỉ có một đôi dép và hai túi nilon, một thứ thì nhét đầy Nhật báo Khoa học Pháp y cũ, túi kia thì đầy những mảnh Lego. Trên giá sách của Jacob, tôi lấy hết bộ DVD CrimeBusters, rồi nhìn qua chồng sổ cậu ta ghi chú lại loạt phim này. Jacob đã bảo cậu ta có cả trăm quyển, và đúng là cậu ta không nói dối. Tôi rút quyển đầu tiên ra xem.
“Ông không thể lấy chúng đi,” Jacob hét lên.
“Tôi rất tiếc, Jacob à.”
Chương 74, tôi đọc.
Chứng nhân im lặng, 12/4108.
Hai thiếu niên ham vui lái xe tông phải một người đàn ông bị điếc, hóa ra người này đã chết rồi.
Sau đây là danh sách chứng cứ.
Đã phá án xong, 0:36.
Emma đã đến bên, kề sát đầu vào Jacob. Cô đang lẩm bẩm gì đó tôi không nghe rõ. Mặc kệ họ, tôi tiếp tục lướt qua đống sổ. Nhiều tập được viết lại đến vài lần. Có vẻ Jacob cứ viết mỗi lần phim chiếu, dù cho cậu ta đã xem tập đó rồi. Một số đoạn ghi chú cho thấy Jacob không thể phá được vụ án trước khi thám tử trong phim làm chuyện này.
Có những vụ bắt cóc. Đâm người. Những vụ giết người theo nghi lễ tà phái. Tôi để ý đến một đoạn.
Joffrey mang đôi giày của bạn trai, và để lại những dấu giày trong bãi bùn sau nhà để đánh lạc hướng các điều tra viên.
Kẹp giữa các trang sách là một tấm thẻ màu hồng, và khi đọc xong tôi nhận ra đây là một lời Jacob tự viết cho mình.
Tôi khốn khổ. Tôi không thể chịu nổi nữa rồi.
Những người đáng ra phải quan tâm lại chẳng làm thế.
Tôi hy vọng và cuối cùng mọi người khiến tôi thất vọng. Cuối cùng tôi biết mình có vấn đề gì rồi: chính là tất cả các người. Tất cả các người nghĩ tôi chỉ là một đứa tự kỷ, vậy nên có ai thật sự quan tâm tôi đâu? Phải, tôi ghét các người. Tôi ghét tất cả các người. Tôi ghét những đêm tôi khóc vì các người. Nhưng các người chỉ là con người thôi. CHỈ LÀ CON NGƯỜI THÔI.
Vậy tại sao các người khiến tôi cảm thấy mình quá nhỏ bé đến thế?
Những dòng này được viết mới một tuần, hay một tháng, một năm? Đây là phản ứng với những đứa bạn chuyên bắt nạt ở trường? Hay một lời mắng của thầy giáo? Hay một câu nói của Jess Ogilvy?
Nó có thể chỉ ra động cơ của Jacob. Tôi vội vàng gấp quyển sổ lại và nhét tờ giấy hồng vào hộp. Bạn không thể thấy tấm giấy đó nữa, nhưng tôi biết nó có ở đó, và nó có vẻ quá riêng tư, quá nguyên sơ để có thể xem nó chỉ là một chứng cứ đơn thuần. Đột nhiên trong đầu tôi lướt qua hình ảnh Jacob Hunt thu mình trong căn phòng này sau một ngày cố gắng vô ích để hòa nhập với hàng trăm đứa trẻ trong trường. Trong chúng ta, có ai lại chưa từng có lúc thấy mình bị loại ra ngoài chứ? Có ai chưa từng thấy có nơi nào đó không dung được mình?
Có ai lại chưa từng cố gắng… và rồi thất bại chứ?
Tôi từng là một đứa mập ú, luôn bị giao làm thủ môn khi tập bóng, và đóng vai tảng đá khi trường diễn kịch. Tôi bị gọi là Bánh bao, Mỡ heo, Động đất, và đủ cái tên khác. Hồi lớp tám, sau lễ bế mạc năm học, một đứa đến tìm tôi. Tao chưa từng biết tên thật của mày là Rich đấy, nó nói thế.
Khi chúng tôi phải chuyển đến Vermont để bố tôi nhận việc mới, tôi đã dành cả mùa hè để tái tạo mình. Tôi đã chạy, ngày đầu tiên được nửa dặm, rồi cả dặm, rồi cứ thế tăng lên dần. Tôi chỉ ăn rau củ. Tôi tập cơ bụng 500 lần trước khi đánh răng mỗi sáng. Đến lúc vào trường mới, tôi là một cậu bé hoàn toàn khác, và không bao giờ tôi trở lại con người cũ nữa.
Jacob Hunt không thể tập thể dục để thay đổi mình. Cậu ta không thể chuyển trường và làm lại từ đầu. Cậu ta luôn luôn là một đứa trẻ mắc hội chứng Asperger.
Trừ phi, cậu ta biến mình thành đứa trẻ đã giết Jess Ogilvy.
“Tôi xong cả rồi,” tôi nói, và gom mấy chiếc hộp lại. Tôi chỉ cần bà ký vào giấy biên nhận tài sản, để nhận lại về sau.”
“Và đó là lúc nào?”
“Khi công tố xong chuyện với chúng.” Tôi quay lại để tạm biệt Jacob, nhưng cậu ta đang thẫn thờ nhìn vào cái khoảng trống không từng đặt cái bể cá.
Emma tiễn tôi xuống lầu. “Ông đang phí thời gian thôi,” cô nói. “Con trai tôi không phải kẻ giết người.”
Tôi đưa giấy kiểm kê cho cô ấy mà không nói gì.
“Nếu tôi là bố mẹ của Jess, tôi muốn biết cảnh sát có đang nỗ lực tìm người giết con trai mình không hay chỉ đang hướng toàn bộ vụ án vào một ý nghĩ ngớ ngẩn rằng thủ phạm là một đứa trẻ tự kỷ không có tiền sự nào, một đứa trẻ rất yêu thương Jess.” Cô ký giấy biên nhận rồi mở cửa chờ sẵn. “Anh có nghe tôi nói gì không đấy?” cô nói, giọng cương quyết. “Anh bắt nhầm người rồi.”
Dù cho rất hiếm, nhưng có những lúc tôi ước giá mà mình được nhầm như thế. Chẳng hạn như khi tôi còng tay người phụ nữ bị bạo hành đã cầm dao lao vào chồng mình. Hay khi tôi bắt một anh chàng đột nhập tiệm tạp hóa để trộm sữa cho con bởi không có tiền để mua. Nhưng cũng như những vụ đó, tôi không thể mâu thuẫn với chứng cứ đang có trước mắt mình. Có lẽ tôi thấy thương cho thủ phạm, nhưng như thế không có nghĩa là người đó không phạm tội.
Tôi nhấc mấy chiếc hộp lên, và vừa qua ngưỡng cửa, tôi quay người lại. ‘‘Tôi xin lỗi,” tôi nói. “Dù sao… tôi cũng thực sự xin lỗi.”
Emma chớp mắt. “Anh xin lỗi sao? Vì chuyện gì chứ? Vì nói dối tôi? Nói dối Jacob? Tống nó vào tù mà chẳng thèm nghĩ gì đến tình trạng của nó…”
“Nói cho đúng, thì thẩm phán mới là người làm…”
“Sao anh dám,” Emma hét lên. “Sao anh dám vào đây như thể anh đứng về phía chúng tôi, rồi trở mặt và làm chuyện này với con trai tôi!”
“Chẳng có phía nào cả,” tôi cũng hét lại. “Chỉ có một cô gái, đã chết cô độc và sợ hãi, một tuần sau người ta mới tìm thấy cái xác đông cứng của cô ấy. Tôi cũng có con gái. Nếu như chuyện đó xảy ra với con tôi thì sao?” Mặt tôi bây giờ đã đỏ bừng. Tôi lại gần Emma. “Tôi không làm chuyện này vì con trai bà,” tôi nói, với giọng nhẹ nhàng hơn. “Tôi làm chuyện này vì con gái tôi.”
Và Emma chỉ biết há hốc mồm. Cô không nói gì nữa khi tôi nhấc mấy chiếc hộp và đi ra xe. Nhưng một lần nữa, tôi biết điều khiến chúng ta ngạc nhiên không phải là những khác biệt. Mà lạ thay, lại là những điểm chung của chúng ta.