← Quay lại trang sách

- 5 - Emma

Như thể sau chuyến viếng thăm của Oliver Bond, tôi cần được nhắc nhở rằng cuộc sống của mình sẽ không bao giờ như cũ nữa. Và lời nhắc nhở đó là của bà biên tập viên.

“Tôi hy vọng chiều nay cô có thể ghé tòa soạn,” Tanya nói. “Có vài chuyện chúng ta cần thảo luận.”

“Tôi không thể.”

“Sáng mai?”

“Tanya,” tôi nói, “Jacob đang bị cầm cố ở nhà. Tôi cũng không được ra khỏi nhà.”

“Đó là lý do vì sao tôi muốn chúng ta gặp mặt… Chúng tôi nghĩ, hiện giờ để tốt cho tất cả, cô nên tạm nghỉ viết cột bài của mình.”

“Tốt cho tất cả sao?” Tôi lặp lại lời bà ấy vừa nói. “Làm sao mất việc lại tốt cho tôi đây?”

“Tạm thời thôi, Emma à. Cho đến khi chuyện này… qua khỏi. Tôi chắc là cô hiểu mà,” Tanya giải thích. “Chúng tôi thật sự không thể tán thành lời khuyên của…”

“Của một ngòi bút có con trai bị cáo buộc tội giết người?” Tôi nói thay cho bà ấy. “Tôi viết bài ẩn danh mà. Chẳng ai biết về tôi, về Jacob lại càng không.”

“Nhưng giữ kín được bao lâu chứ? Chúng ta làm việc trong ngành tin tức. Có người sẽ điều tra, rồi chúng ta sẽ trông như những đứa ngốc đấy.”

“Sao cũng được,” tôi dằn từng tiếng. “Chúng tôi không muốn bà trông như đứa ngốc.”

“Chúng tôi không sa thải cô đâu. Bob đã đồng ý cho cô nửa mức lương cộng trợ cấp nếu cô nhận biên tập tự do cho mục báo Chủ Nhật.”

“Đến đoạn này tôi nên quỳ gối tạ ơn các bà, phải chứ?” Tôi hỏi.

Bà ấy im lặng một hồi. “Emma, cô là người cuối cùng trên đời đáng phải chịu thế này. Cô đã có thập giá của mình rồi.”

“Jacob,” tôi bẻ lại ngay, “không phải là thập giá. Nó là con trai tôi.” Tay tôi cầm điện thoại bắt đầu run lên. “Đi mà biên tập cho mục báo Chủ Nhật chết tiệt của các người đi,” tôi nói rồi cúp máy.

Tôi thảng thốt kêu lên khi nhận ra chuyện mình vừa làm gây hậu quả tai hại đến thế nào. Tôi là một bà mẹ đơn thân, và hầu như không thể kiếm tiền. Tôi chỉ có thể làm việc ở nhà mà thôi, và giờ làm sao tôi lo cho cuộc sống khi mất việc đây? Tôi có thể gọi cho sếp cũ ở công ty sách giáo khoa, và nài xin được nhận làm cộng tác viên tự do, nhưng tôi rời nơi đó đã hai mươi năm rồi. Tôi có thể sống tạm bằng số tiền tiết kiệm, cho đến khi nó hết sạch.

Rồi sẽ thế nào đây?

Tôi thừa nhận là tôi đã nghĩ rằng hệ thống luật pháp của chúng ta mặc nhiên đúng đắn. Tôi cho rằng người vô tội sẽ chiến thắng, và người có tội phải lãnh hậu quả. Nhưng hóa ra, nó không đơn giản như thế. Nếu bạn không có tội, không có nghĩa bạn cứ thế dễ dàng nói rằng mình không có tội. Như Oliver Bond đã chỉ cho tôi thấy, còn cần phải thuyết phục bồi thẩm đoàn tin như thế nữa. Mà Jacob lại tệ nhất trong chuyện kết nối với người lạ.

Tôi vẫn đang mong chờ mình tỉnh dậy khỏi giấc mơ này. Tôi mong có ai đó xuất hiện và chỉ cho tôi những máy quay giấu kín, nói với tôi đây chỉ là một trò đùa mà thôi, nói rằng Jacob được tự do, và tất nhiên mọi chuyện đều là nhầm lẫn. Nhưng chẳng có ai xuất hiện như thế cả. Mỗi sáng tôi thức dậy và mọi chuyện vẫn như cũ.

Chuyện tệ nhất có thể xảy ra là Jacob lại phải vào tù, bởi ở đó người ta không hiểu nó. Nhưng nếu nó vào bệnh viện, thì nó sẽ ở với các bác sĩ. Oliver đã nói là Jacob sẽ được đưa vào cơ sở điều trị an ninh, cho đến khi thẩm phán thấy chắc là nó sẽ không làm hại ai nữa. Thế nghĩa là nó sẽ có cơ hội, dù chỉ rất nhỏ, để được ra khỏi đó.

Tôi nặng nề lê bước lên cầu thang, như thể chân tôi đang đeo chì vậy. Đến trước cửa phòng Jacob, tôi gõ. Nó đang ngồi trên giường, tay giữ quyển Flowers for Algernon sát ngực. “Con đọc xong rồi,” nói nói.

Dù dạy học ở nhà, tôi vẫn phải bảo đảm nó theo kịp giáo trình ở trường và quyển tiểu thuyết này là bài tập mới nhất cho môn Ngữ văn. “Và?”

“Nó thật vớ vẩn.”

“Vậy mà mẹ cứ luôn nghĩ là nó đượm buồn chứ.”

“Nó vớ vẩn,” Jacob lặp lại, “bởi ông ta không nên tham gia thí nghiệm đó.”

Tôi ngồi xuống cạnh nó. Trong truyện, Charlie Gordon một người bị thiểu năng, đã trải qua tiến trình phẫu thuật để tăng chỉ số IQ lên gấp ba lần, nhưng rồi thí nghiệm hoàn toàn thất bại và ông ta lại mang trí thông minh dưới mức bình thường.

“Tại sao lại không?” tôi nói. “Ông ấy phải xem thử mình đã bỏ lỡ điều gì chứ?”

“Nhưng nếu ông ấy không tham gia thí nghiệm, thì sẽ không bao giờ biết mình đã bỏ lỡ điều gì.”

Khi Jacob nói những lời như thế này, những sự thật quá nguyên sơ mà hầu hết chúng ta sẽ không dám thừa nhận dù chỉ trong ý nghĩ chứ chưa nói đến việc tuyên bố ra, khi đó trông nó thông minh hơn bất kỳ ai tôi từng biết. Tôi không tin con mình bị điên. Và tôi cũng không tin chứng Asperger của nó là một khuyết tật. Nếu Jacob không mắc hội chứng Asperger, nó sẽ không là cậu bé mà tôi đang yêu thương vô vàn như lúc này. Một cậu bé ngồi xem Casablanca với tôi và có thể trích lại những câu thoại của Bogey, một cậu bé nhớ hết danh sách mua hàng lúc tôi vô ý để quên nó ở nhà, một cậu bé không bao giờ làm ngơ nếu tôi bảo nó lấy ví trong túi xách ngoài tiền sảnh hoặc chạy lên lầu lấy tập giấy in cho tôi. Nếu không có hội chứng Asperger, tôi sẽ có một đứa con không phải đấu tranh quá dữ dội như thế, một đứa con có thể dễ dàng hòa nhập vào thế giới? Không, bởi đứa trẻ đó sẽ không phải là Jacob của tôi. Khi nghĩ đến Jacob, hẳn tôi sẽ nghĩ đến những vất vả và khủng hoảng vì nó, nhưng những khoảnh khắc giữa đó là những điều tôi sẽ không bao giờ đánh đổi, dù có cho tôi cả thế giới.

Nhưng tôi biết vì sao Charlie Gordon lại tham gia thí nghiệm đó. Và tôi biết vì sao tôi chuẩn bị có một cuộc chuyện trò với Jacob, nói những lời sẽ khiến trái tim tôi khô héo thành than. Đó là bởi, bất kỳ lúc nào có thể, con người đều sai lầm chạy theo hy vọng.

“Mẹ phải nói với con về những chuyện mà Oliver đã nói,” tôi mở lời.

Jacob ngồi dậy. “Con không điên. Con không để anh ta nói thế về con đâu.”

“Cứ nghe mẹ nói…”

“Đó không phải là sự thật,” Jacob nói. “Và mẹ luôn bảo con phải nói sự thật. Là luật nhà mà.”

“Con nói đúng. Nhưng đôi khi, nói dối một chút cũng không sao, nếu như nó giúp con giữ được sự thật bền lâu.”

Jacob chớp mắt. “Nói con bị điên là nói dối một chút sao?”

Tôi nhìn nó, “Mẹ biết là con không giết Jess. Mẹ tin con. Nhưng con phải khiến cho mười hai người lạ trong bồi thẩm đoàn tin con nữa. Con định làm như thế nào đây?”

“Con sẽ nói cho họ sự thật.”

“Được rồi. Cứ làm như ta đang ở tòa đi, nói cho mẹ nghe xem nào.”

Nó lướt mắt qua mặt tôi rồi chăm chăm nhìn vào khung cửa sổ sau lưng tôi. “Luật đầu tiên của Fight Club là không nói về Fight Club.”

“Đó chính xác là những gì mẹ muốn nói đấy. Trước tòa, con không thể dùng câu thoại trong phim để diễn tả chuyện đã xảy ra… Nhưng con có thể dùng một luật sư mà.” Tôi nắm lấy cánh tay Jacob. “Mẹ muốn con hứa với mẹ là con sẽ để Oliver nói bất kỳ điều gì anh ấy cần nói để giúp con thắng vụ này.”

Nó cúi cằm xuống. “Cho một ly martini,” nó nói khẽ. “Lắc, không khuấy.”

“Mẹ sẽ xem đó là lời đồng ý,” tôi nói mà lòng hoang mang.