← Quay lại trang sách

- 6 - Theo

Nếu một ngày đi học dài bảy tiếng, thì hết sáu tiếng bị ngốn vào những khoảng thời gian toàn chuyện vớ vẩn: thầy giáo hét vào mặt những đứa quậy phá, tám chuyện trên đường đến tủ đồ, lặp lại một khái niệm toán học mà bạn đã hiểu ngay khi vừa nghe lần đầu. Và điều tôi cảm nhận rõ nhất khi học ở nhà, đó chính là sự lãng phí thời gian khi đến trường.

Khi chỉ có tôi và Jacob, tôi có thể làm một mạch hết sạch bài vở chỉ trong một tiếng, để lại mấy đoạn sách cần đọc cho khoảng thời gian trước khi đi ngủ. Và càng thuận tiện hơn, khi mẹ tôi rất không tin tưởng vào giáo trình. (“Ta bỏ qua phần này đi. Nếu muốn người ta học số ảo, thì chúng nên tự biến thành số thật đi đã.” hoặc là “Chúa ơi, con đã học về người Thanh Giáo bao nhiêu lần rồi, tính từ lớp một ấy? Một trăm lần? Chuyển qua học về Cuộc Kháng cách đi thôi.”) Dù gì đi nữa, tôi cũng thích học ở nhà. Khi học ở nhà, bạn là kẻ ngoài vòng xã hội, nên không cần phải lo lắng chuyện mình trông thật ngốc khi trả lời sai một câu, hay lo chuyện cô bé dễ thương trong lớp Ngữ văn tia bạn lúc bạn lên bảng viết phương trình trong giờ trả bài. Và được thế là bởi ở nhà chúng tôi làm gì có bảng.

Vì Jacob làm bài khác tôi, nên anh và tôi ngồi ở hai đầu chiếc bàn bếp. Tôi làm bài xong trước anh, nhưng mà lâu nay vẫn thế mà. Jacob có thể thông minh cực kỳ, nhưng đôi khi những suy nghĩ sáng láng của anh không thể diễn tả ra trang giấy dễ dàng. Tôi thấy kiểu này giống như một chiếc tàu cao tốc nhanh nhất thế giới, nhưng lại không có đường ray để chạy vậy.

Làm xong bài tập tiếng Pháp (Que fait tonfrere? Anh của em làm việc ở đâu? Il va a la prison! Anh ấy ở trong tù!), tôi gấp sách vở lại. Mẹ đang uống cà phê liền liếc nhìn qua. Thường những lúc này, mẹ đang cặm cụi đánh máy, nhưng mấy ngày này hẳn mẹ không tập trung được. “Xong,” tôi tuyên bố.

Mẹ khẽ nhếch môi, và tôi biết đó coi như là một nụ cười. “Tốt.”

“Mẹ cần con làm gì nữa không?” Tôi hỏi.

“Con quay ngược được thời gian thì hay.”

“Con nghĩ đi mua hàng tạp hóa thì hơn,” tôi gợi ý. “Nhà ta chẳng còn gì để ăn cả.”

Đúng thật là thế, và mẹ cũng biết thế. Mẹ không được rời khỏi nhà bao lâu Jacob vẫn còn bị giam lỏng ở đây, và thế nghĩa là chúng tôi đang dần đi đến cảnh chết đói nếu tôi không ra tay làm gì. “Con đâu lái xe được,” mẹ nói.

“Con có ván trượt mà.”

Mẹ nhíu mày. “Theo, con không thể trượt ván với cả đống đồ được.”

“Sao lại không? Con sẽ dùng mấy chiếc túi xanh đeo được trên vai, và con không mua thứ gì nặng cả.”

Chẳng mất bao lâu để thuyết phục mẹ chuyện này, nhưng rồi chúng tôi lại bị kẹt chuyện khác. Trong ví mẹ chỉ còn mười dollar, và tôi không thể đóng giả Emma Hunt khi đưa ra thẻ tín dụng của mẹ lúc thanh toán được. “Jacob,” tôi nói, “mẹ và em cần mượn ít tiền.”

Anh ấy vẫn cứ chúi mũi và quyển sách lịch sử. “Trông anh giống ngân hàng lắm sao?”

“Anh đùa đấy à?” Tôi thề là anh trai tôi vẫn giữ nguyên từng đồng anh được tặng trong những dịp sinh nhật, Giáng Sinh, và đủ dịp khác. Tôi chỉ thấy anh dùng tiền đúng một lần, 35 xu cho một thỏi kẹo cao su.

“Đừng,” mẹ tôi nói khẽ. “Đừng làm anh con bực mình.” Và mẹ lục túi, rút ra thẻ ATM đưa cho tôi. “Con ghé vào ngân hàng ở trung tâm mua sắm, rút một ít tiền đi. Mã số PIN của mẹ là 4550.”

“Thật sao?” Tôi nói, mặt rạng rỡ. “Mẹ vừa cho con biết mã số PIN của mẹ?”

“Phải, nên đừng khiến mẹ phải hối hận đấy.”

Tôi chộp lấy chiếc thẻ và ra khỏi bếp. “Vậy đấy cũng là mật khẩu máy tính của mẹ?”

“Sữa đậu nành,” mẹ nói. “Và bánh mì không gluten, thịt muối không muối. Và bất kỳ thứ gì khác mà con muốn.”

Tôi đã ra một quyết định lớn, là không dùng ván trượt mà đi bộ đến ngân hàng. Dù gì nó cũng chỉ cách nhà có hai dặm thôi mà. Tôi cứ cúi đầu mà đi, và tự nhủ lòng rằng tôi làm thế là vì trời gió, nhưng thật ra là bởi tôi chẳng muốn gặp bất kỳ ai quen biết. Tôi đi ngang qua mấy người trượt tuyết băng đồng trên sân gofl, và hai người chạy bộ. Lúc đến ngân hàng, tôi nhận ra là đã hết giờ làm việc, và cùng chẳng biết làm sao để vào được cái phòng nhỏ đặt cây ATM. Thế là tôi đi vòng ra sau tòa nhà, ở đó có một cây ATM cho khách đi xe có thể rút tiền mà không cần xuống xe. Tôi đứng chờ sau một chiếc Honda đợi đến lượt mình.

Màn hình hiển thị dòng chữ, Nhập số tiền. Tôi đánh vào 200$ rồi ngập ngừng bấm nút hủy giao dịch. Thay vì rút tiền, tôi lại xem số dư tài khoản.

Thật sự nhà chúng tôi chỉ có 3.356$ trong tài khoản tiết kiệm thôi sao? Tôi cố nhớ xem mẹ tôi có từng nhận sao kê từ ngân hàng nào khác nữa hay không? Cố nhớ xem trong nhà có cái két tiền nào không?

Tôi biết là Lữ quán Townsend có nhận thiếu niên mười lăm tuổi làm bồi bàn. Và tôi khá chắc là nếu có phương tiện để đi Burlington, tôi có thể được nhận vào làm ở McDonald. Rõ ràng là nếu trên đời này có người đang rất cần một công việc, thì đó là tôi. Bởi hiện tại, mẹ tôi không thể ra khỏi nhà, và Jacob thì đã chứng minh rõ anh ấy không đủ khả năng tâm thần để nhận bất kỳ công việc nào.

Jacob từng nhận ba việc. Việc đầu tiên là ở một cửa hàng thú cưng, từ cái thời anh cứ ám ảnh về lũ chó ấy. Anh bị sa thải vì bảo ông chủ là thằng ngu khi để túi thức ăn cho chó ở sau cửa hàng. Việc thứ hai của anh là đóng gói ở một cửa hàng thực phẩm. Khi hàng chuyển đến trên băng chuyền, bà thu ngân ở đó cứ bảo anh “lùa vịt hàng hàng đi,” rồi nổi điên vì anh không chịu nghe, trong khi thực tế Jacob chẳng thể hiểu bà ấy muốn nói gì. Việc thứ ba là bán đồ ăn vặt ở một bể bơi trong mùa hè. Tôi cho là mọi chuyện tốt đẹp trong giờ làm việc đầu tiên, nhưng đến giờ ăn trưa, khi có đến sáu đứa nhóc đứng chực la hét đòi bắp rang bơ, bánh mì xúc xích, và bánh nacho cùng một lượt, thì Jacob chỉ còn cách vứt tạp dề đi về ngay thôi.

Một chiếc xe tấp vào chờ rút tiền, khiến tôi thấy mình như đứa lập dị. Tôi giẫm chân, bấm nút Rút tiền, rồi bấm chọn 200$. Khi tiền vừa ló ra cửa máy, tôi liền nhét ngay vào túi. Rồi tôi nghe tiếng có người gọi tên tôi.

“Theo? Theo Hunt, là em phải không?”

Bỗng nhiên tôi thấy mặc cảm tội lỗi, như thể đang bị bắt gặp làm một chuyện bị cấm vậy. Nhưng mà rút tiền ở một cây ATM cho lái xe, đâu phải là phạm pháp?

Cửa xe mở, và thầy Jennison dạy tôi môn sinh học bước ra. “Hôm nay em thế nào?” thầy hỏi.

Tôi nhớ lại có lần mẹ đã la rầy Jacob vì anh ấy không chịu chuyện trò trong đám cưới một người bà con xa. Jacob bảo anh sẽ hỏi xem dì Marie thế nào nếu như anh thật sự quan tâm đến dì… nhưng mà thật ra anh đâu quan tâm đến người họ hàng xa như thế, nên nếu anh làm vậy sẽ là nói dối.

Nhiều lần tôi thấy cách nhìn nhận thế giới của Jacob hợp lý hơn chúng ta rất nhiều. Tại sao ta lại hỏi người khác xem họ thế nào trong khi ta chẳng buồn quan tâm đến câu trả lời chứ? Thầy Jennison hỏi tôi câu đó, bởi thầy lo cho tôi, hay chỉ bởi đó là một thứ nói ra cho có mà thôi.

“Em ổn cả,” tôi nói, bởi lề thói không dễ gì mất được. Nếu tôi giống Jacob, tôi sẽ trả lời thẳng: Tối qua em không ngủ được. Và Thỉnh thoảng, khi chạy quá nhanh, em bị tức thở. Nhưng trong thực tế, khi có ai hỏi xem bạn thế nào, thì họ không muốn biết sự thật đâu. Người đó chỉ muốn một câu trả lời dễ nghe, một thứ mà họ đã biết sẽ thế nào rồi, và sau đó họ có thể vui vẻ quay đi.

“Em cần đi nhờ xe không. Trời đang lạnh cóng đấy.”

Có vài giáo viên khiến tôi thật sự thích, và số khác tôi thật sự không ưa gì, nhưng thầy Jennison chẳng thuộc hai loại này. Thầy chẳng có nét gì nổi bật, từ mái tóc mỏng cho đến lối dạy của thầy, kiều thầy giáo mà đến lúc vào đại học tôi sẽ chẳng còn nhớ nổi tên. Tôi khá chắc là thầy cũng cùng cảm nghĩ như thế về tôi. Tôi là một học sinh trung bình trong lớp của thầy, chẳng xuất sắc cũng không kém cỏi đủ để thầy nhớ mặt. Nhưng tất nhiên là tôi chỉ nghĩ thế, cho đến khi thầy vừa gọi tên tôi.

Giờ tôi là tâm điểm của mọi mối quan hệ rồi mà. Ôi trời, dì tớ dạy Theo môn toán hồi lớp ba đấy, Hoặc, Tớ từng ngồi cạnh cậu ấy ở buổi họp toàn trường. Tên của tôi sẽ được nhắc đến trong mọi buổi tiệc trường từ nay về sau. Tên sát nhân tự kỷ đó sao? Tớ từng học chung lớp với em trai hắn ở Trường Trung học Townsend.

“Mẹ em đậu xe bên kia đường,” tôi lúng búng, nhận ra rằng nếu mẹ có chở tôi đến đây, thì chiếc xe đó phải nằm ngay chỗ tôi đang đứng đây. “Dù gì cũng cảm ơn thầy,” tôi nói và vội vã quay đi, đến nỗi suýt quên lấy biên lai rút tiền.

Tôi đi như chạy cả quãng đường đến hiệu tạp hóa, như thể lo sợ thầy Jennison sẽ lái xe đuổi theo và rủa thẳng vào mặt tôi là đồ dối trá. Tôi có nghĩ đến chuyện lấy $200 này và nhảy lên xe buýt biến đi cho xong chuyện cho rồi. Nhưng tôi chỉ nghĩ thế một lần thôi. Tôi hình dung mình đang ngồi trên dãy ghế cuối, cạnh một cô bé thật xinh mời tôi ăn vặt, hoặc cạnh một bà lão đang đan len cho đứa cháu mới sinh và hỏi xem tôi định đi về đâu.

Tôi tưởng tượng mình bảo bà là tôi đi thăm anh trai ở trường đại học. Và tôi còn bảo là chúng tôi rất thân thiết, nên khi anh ấy rời trung học, tôi nhớ anh lắm.

Tôi tưởng tượng nếu những câu chuyện đó không phải nói dối thì sẽ tuyệt thế nào.

Tối hôm đó, lúc chuẩn bị đi ngủ, tôi mới nhận ra bàn chải của mình biến đâu mất rồi. Tôi giận dữ lao qua hành lang đến phòng Jacob. Tin tôi đi, đây không phải là lần đầu tiên đâu. Jacob có một băng thu âm độc một bài “Who’s on First” của Abbott và Costello song ca, cứ hát đi hát lại mãi. “Lần này anh làm gì với bàn chải của em hả?” Tôi hỏi.

“Anh không động vào cái bàn chải vớ vẩn của em.”

Nhưng tôi không tin Jacob. Tôi liếc mắt về cái bể cá mà anh dùng làm tủ xông hơi, nhưng nó không có đó.

Giọng của Abbott và Costello thật yếu ớt, tôi hầu như không thể nghe ra lời hát. “Anh có nghe ra không?” Tôi nói.

“Đủ lớn mà.”

Tôi nhớ có lần vào dịp Giáng Sinh, mẹ tặng cho Jacob một chiếc đồng hồ. Mẹ phải đem nó đi trả, bởi tiếng tích tắc khiến anh phát điên.

“Anh không điên,” Jacob bỗng thốt lên. Và tôi chợt nghĩ không biết mình có buột miệng nói ra suy nghĩ vừa rồi không.

“Em chưa từng nói anh điên!”

“Có đấy,” Jacob nói.

Anh ấy nói phải. Ký ức của anh như một cái bẫy thép, sẵn sàng bật lên bất kỳ lúc nào. “Cứ xem như mấy thứ anh trộm trong phòng em để nhét vào bể cá và tạo hiện trường vụ án là đền bù đi, em nghĩ thế là huề rồi.”

Người ghi điểm đầu tiên tên gì thế?

Không. Người thứ hai cơ.

Tôi đâu hỏi anh tên người thứ hai.

Người đầu tiên cơ.

Tôi không biết.

Anh ta là thứ ba, ta không nói về anh ta.

Tiếng nhạc cứ rỉ rả một câu chuyện không đầu đuôi. Được rồi, tôi biết có vài người thấy cái thứ tự đó có vẻ hài hước, nhưng tôi chưa bao giờ là người như thế. Có lẽ lý do Jacob thích nó đến thế là bởi nó hoàn toàn hợp lý với anh, bởi anh hiểu chúng hoàn toàn theo nghĩa đen.

“Có lẽ nó bị ném đi rồi,” Jacob nói, và lúc đầu tôi cứ tưởng đó là tiếng hát của Costello, nhưng rồi tôi nhận ra là anh đang nói về cái bàn chải của tôi.

“Là anh làm sao?” Tôi hỏi.

Jacob nhìn thẳng vào mắt tôi. Mỗi lúc như thế tôi đều giật bắn mình, bởi quá hiếm khi anh nhìn vào mắt ai đó.

“Là em làm sao?” Jacob trả lời.

Đột nhiên, tôi không chắc chúng tôi đang nói về chuyện gì nữa, nhưng có lẽ không phải chuyện cái bàn chải nữa rồi. Trước khi tôi kịp trả lời, mẹ tôi đã ló đầu vào. “Cái này của ai đây?” mẹ hỏi, trên tay là bàn chải của tôi. “Nó nằm trong phòng tắm.”

Tôi chộp lấy nó từ tay mẹ. Trên cuộn băng cassette, Abbott và Costello vẫn đang cãi nhau trên tiếng cười làm nền.

Giờ anh mới nói được một lời có lý.

Tôi còn không biết mình đang nói gì nữa!

“Anh đã bảo em rồi mà,” Jacob nói.