- 4 - Oliver
Ở đồn cảnh sát, Jacob đã thừa nhận rằng việc làm gãy răng Jess Ogilvy là một tai nạn. Cậu ấy cũng thừa nhận đã di chuyển thi thể cô và dựng lại hiện trường vụ án.
Bất kỳ bồi thẩm nào nghe thế, cũng có một bước suy đoán vô cùng đơn giản và logic rằng cậu ta đã thú nhận chính mình là thủ phạm. Xét cho cùng, chuyện đâu có phải kiểu như chất đống thi thể để thỏa mãn đam mê của những đứa trẻ tự kỷ bị ám ảnh về tội phạm học chứ.
Vì thế, điểm tựa khả quan nhất của tôi để giúp Jacob thoát án tù chung thân là hủy bỏ hoàn toàn cuộc thẩm vấn của cảnh sát trước khi nó được xem là bằng chứng. Để làm thế, chúng tôi phải qua một buổi trình bày xóa bỏ, nghĩa là một lần nữa, tôi, Emma và Jacob phải đối diện với thẩm phán.
Vấn đề duy nhất là trong lần cuối cùng Jacob đến phòng xử án, mọi chuyện không được thuận chèo mát mái cho lắm. Vì thế tôi phải bám sát như hình với bóng bên thân chủ của mình trong phiên giải trình này.
Helen Sharp bước lên và bắt đầu hỏi viên thám tử. “Lần đầu tiên ông can dự vào vụ án này là lúc nào?”
“Vào sáng thứ Tư, ngày 13 tháng 01, tôi nhận thông tin báo mất tích từ Mark Maguire, bạn trai của Jess Ogilvy. Tôi đã điều tra, và vào ngày 18 tháng 01, sau cuộc tìm kiếm trên diện rộng, chúng tôi đã tìm được thi thể của cô Ogilvy trong một ống nước. Cô ấy đã chết vì xuất huyết nội do một chấn thương nặng ở đầu, cô còn có rất nhiều vết trầy xước và bầm dập. Lúc tìm thấy cô ấy được quấn trong tấm mền của bị cáo.”
Jacob liền hăng hái viết gì đó xuống tập giấy tôi để trước mặt cậu ấy, rồi đưa cho tôi. Ông ta nói sai rồi.
Tôi cầm tập giấy cậu ấy vừa đưa, lòng bỗng thấy hy vọng lạ thường. Jacob hẳn đã quên nói đến một vài điểm rất nhỏ, như sai sót nhỏ về bằng chứng này chẳng hạn. Đấy không phải là mền của cậu sao?
Nói cho đúng, thì đấy không phải là xuất huyết nội, Jacob viết vội. Mà là máu đọng giữa màng cứng và màng nhện bọc của não, nghĩa là lớp giữa của màng não.
Tôi tròn mắt. Cám ơn bác sĩ Hunt, tôi viết.
Jacob cau mày. Tôi không phải bác sĩ, cậu ấy viết lại.
“Cho tôi nói lại một chút,” Helen nói với thám tử Matson. “Ông đã nói chuyện với bị cáo trước khi tìm thấy thi thể cô Ogilvy?”
“Đúng. Khi tôi xem qua lịch trình của nạn nhân, tôi đã hỏi chuyện tất cả những người đã gặp cô ấy trong ngày cuối cùng trước khi mất tích, và cả những người có lịch hẹn nữa. Jacob Hunt có hẹn học kèm với cô Ogilvy vào lúc 2:35 chiều cùng ngày cô ấy mất tích. Tôi đã gặp cậu ta để hỏi xem hôm đó cậu ta có gặp cô ấy không?”
“Hai người gặp nhau ở đâu?”
“Tại nhà của bị cáo.”
“Khi anh đến nơi, có những ai ở nhà?” Helen hỏi.
“Jacob Hunt và mẹ cậu ta. Tôi tin là em trai cậu ta đang ở trên lầu nữa.”
“Trước ngày hôm đó, ông đã từng gặp cậu ta chưa?”
“Từng một lần,” thám tử trả lời. “Vài ngày trước thời điểm đó, cậu ta xuất hiện ở một hiện trường vụ án mà tôi đang điều tra.”
“Ông có nghĩ cậu ta là nghi phạm không?”
“Không. Các cảnh sát khác đã từng thấy cậu ta xuất hiện tại những hiện trường khác rồi. Cậu ta thích đến và tự ý cho vài khuyên về phân tích hiện trường vụ án.” Matson nhún vai. “Tôi cho rằng cậu ta chỉ là một đứa nhóc muốn làm cảnh sát.”
“Lần đầu gặp Jacob, có ai cho ông biết về hội chứng Asperger của Jacob không?”
“Có,” Matson trả lời. “Mẹ cậu ta. Bà ấy tin rằng cậu ta gặp khó khăn trong giao tiếp và có nhiều hành động mà người ngoài nhìn vào sẽ tưởng là cậu ta đang có mặc cảm tội lỗi, nhưng thực sự đó chỉ là những triệu chứng của tự kỷ.”
“Bà ấy có bao giờ bảo là ông không được nói chuyện với con trai mình không?”
“Không,” Matson nói.
“Bị cáo có nói với ông là không muốn nói chuyện với ông không?”
“Không.”
“Ngày đầu tiên gặp nhau, cậu ta có biểu hiện gì cho thấy cậu ta không hiểu những điều ông nói, hoặc không biết ông là ai không?”
“Cậu ta biết chính xác tôi là ai,” Matson trả lời. “Cậu ta muốn nói chuyện về pháp y.”
“Trong buổi gặp đầu tiên đó ông nói về chuyện gì?”
“Tôi hỏi xem cậu ta có gặp Jess theo lịch hẹn không, và cậu ta bảo không. Cậu ta cũng nói với tôi rằng cậu ta biết Mark, bạn trai của Jess. Thế là khá nhiều thông tin rồi. Tôi để lại danh thiếp cho mẹ cậu ta và nói rằng bà ấy nên gọi cho tôi nếu có thêm thông tin gì, hoặc nếu Jacob nhớ ra được gì đó.”
“Cuộc nói chuyện đó kéo dài bao lâu?”
“Tôi không rõ, tổng cộng có lẽ là năm phút?” Matson nói.
Công tố viên gật đầu. “Lần cuối cùng ông biết rằng Jacob Hunt biết được thông tin gì đó về vụ án này là lúc nào?”
“Mẹ cậu ta gọi điện và nói rằng Jacob có thông tin mới về Jess Ogilvy. Có vẻ như cậu ta đã quên nói với chúng tôi một chuyện. Là lúc cậu ta đợi ở nhà cô ấy, cậu ta đã dọn dẹp vài thứ và xếp giá đĩa CD theo thứ tự ABC. Bạn trai của nạn nhân đã nói đến việc giá đĩa CD được xếp lại, và điều đó khiến tôi muốn nói chuyện thêm với Jacob.”
“Mẹ của Jacob có nói với ông là cậu ta không thể hiểu những câu hỏi của ông không?”
“Bà ấy nói là có thể Jacob khó lòng hiểu những câu hỏi được đặt ra theo một cách nhất định nào đó.”
“Trong buổi nói chuyện thứ hai, Jacob có nói rằng cậu ta không muốn nói chuyện với ông, hoặc nói cậu ta không hiểu những câu hỏi của ông không?”
“Không.”
“Mẹ của bị cáo có cần đứng ra diễn dịch ý của cậu ta, hoặc bởi ông nói lại câu hỏi theo kiểu khác không?”
“Không.”
“Và cuộc nói chuyện thứ hai kéo dài bao lâu?”
“Lâu nhất là mười phút.”
“Ông còn nói chuyện thêm lần nào với Jacob Hunt nữa không?” Helen hỏi.
“Có, vào buổi chiều sau khi chúng tôi tìm thấy thi thể của Jess Ogilvy trong cống nước.”
“Cuộc nói chuyện đó diễn ra ở đâu?”
“Đồn cảnh sát.”
“Tại sao Jacob lại đến nói chuyện với ông lần nữa?”
“Mẹ cậu ta gọi tôi,” Matson nói. “Bà ấy vô cùng đau khổ vì tin rằng con trai mình có liên quan đến vụ giết hại Jess Ogilvy.”
Đột nhiên Jacob đứng dậy, quay về phía dãy ghế, nhìn Emma. “Mẹ nghĩ thế sao?” Jacob hỏi, hai bàn tay thu lại thành nắm đấm.
Emma nhăn nhó đau khổ vô cùng. Bà nhìn xuống tôi cầu cứu, nhưng trước khi tôi kịp nói hay làm gì, giọng của thẩm phán đã vang lên. “Anh Bond, kiểm soát thân chủ của mình.”
Jacob bắt đầu đập đập bàn tay phải. “Tôi cần giờ nghỉ giác quan!”
Tôi gật đầu ngay lập tức. “Thưa thẩm phán, chúng tôi cần tạm dừng phiên tòa.”
“Được. Nghỉ năm phút,” thẩm phán nói, rồi bước ra khỏi ghế.
Ngay khi ông vừa quay đi, Emma liền tiến về phía chúng tôi. “Jacob, nghe mẹ này.”
Nhưng Jacob không nghe được gì, bởi cậu ta đang kêu lên một tiếng cao thé đến mức Helen Sharp phải bịt tai lại. “Jacob,” Emma lặp lại, và đưa tay ôm lấy hai má cậu ấy, bắt cậu phải nhìn bà. Jacob nhắm chặt mắt lại.
“Tôi đã bắn cảnh sát trưởng,” Emma hát, “nhưng không bắn cảnh sát phó. “Tôi đã bắn cảnh sát trưởng, nhưng không bắn cảnh sát phó. Nội tâm tôi tốt đẹp hơn… và chuyện gì đến phải đến.”
Viên chấp hành tòa án đứng trong phòng ném cái nhìn khinh khỉnh về phía Emma. Nhưng Jacob đã có vẻ dịu đi. “Mọi ngày chiếc thùng xuống giếng nước,” Jacob bắt đầu hát bằng giọng đều đều. “Một ngày nọ đáy thùng rơi ra.”
“Đúng rồi, con yêu,” Emma nói khẽ.
Helen nhìn chăm chăm, có vẻ hơi kinh ngạc. “Kinh,” cô ta nói, “con của tôi chỉ biết lời bài hát trẻ con thôi.”
“Chọn bài quá hợp để hát lúc bị khởi tố giết người đấy,” tay chấp hành tòa lẩm bẩm.
“Đừng nghe ông ta,” Emma nói. “Con nghe mẹ này. Mẹ tin con. Mẹ tin con không làm thế.”
Một điều đáng chú ý là Emma không nhìn vào mắt Jacob khi bà nói thế. Nhưng cậu ấy chẳng bao giờ biết thế, bởi Jacob cũng đâu có nhìn vào mắt bà. Nhưng theo lời Emma nói với ông thám tử thì nếu ai đó không nhìn vào mắt bạn, hoặc người đó nói dối hoặc người đó bị tự kỷ. Và nếu Emma không bị tự kỷ, thì tôi biết giải thích thế nào về hành động của bà đây?
Trước khi tôi nghĩ thêm được gì thì thẩm phán đã vào lại phòng, Helen và Rich Matson cũng tuần tự bước lên bục. ‘Cậu chỉ có một việc là làm mặt ngầu thôi,’ tôi thì thầm với Jacob, đưa cậu ấy về lại bàn bị cáo. Rồi tôi thấy cậu ấy lấy ra một mảnh giấy, gấp nếp thành chiếc quạt, và tự quạt cho mình.
“Làm sao Jacob đến được đồn cảnh sát?” Helen hỏi.
“Mẹ cậu ta đưa đến,” Rich Matson trả lời.
Jacob quạt nhanh hơn một chút.
“Cậu ta bị bắt giam sao?”
“Không.”
“Cậu ta được xe cảnh sát đưa đến sao?”
“Không.”
“Một cảnh sát hộ tống mẹ cậu ta đến đồn sao?”
“Không. Bà ấy tự nguyện đưa con trai mình đến.”
“Ông đã nói gì khi gặp cậu ta ở đó?”
“Tôi đỡ nhờ cậu ta giúp tôi vài vụ án.”
“Cậu ta đã phản ứng thế nào?”
“Cậu ta vô cùng phấn khích và sẵn sàng theo tôi,” Matson nói.
“Cậu ta có tỏ ý muốn có mẹ đi cùng, hoặc cảm thấy không thoải mái khi vắng bà không?”
“Ngược lại thì có. Cậu ta bảo muốn giúp tôi.”
“Buổi thẩm vấn diễn ra ở đâu?”
“Trong văn phòng tôi. Tôi bắt đầu hỏi cậu ta về hiện trường vụ án mà cậu ta đã tìm đến cách đây một tuần, vụ liên quan đến người đàn ông bị hạ thân nhiệt. Rồi tôi bảo cậu ta, tôi thật sự muốn nhờ cậu ấy giúp phá án vụ của Jess Ogilvy, nhưng vụ này khó hơn một chút, bởi nó vẫn còn trong quá trình điều tra. Tôi đã bảo cậu ta phải từ bỏ quyền giữ im lặng, và Jacob đã đọc cho tôi nghe quyền Miranda. Tôi đọc theo cậu ta, rồi bảo cậu ta xem lại biên bản, điền tên viết tắt và ký vào dưới văn bản Miranda để tôi biết là cậu ta hiểu, chứ không chỉ nhớ lại những từ đó một cách ngẫu nhiên.”
“Cậu ta có thể trả lời các câu hỏi của ông một cách dễ hiểu không?” Helen hỏi.
“Có.”
Rồi Helen yêu cầu đưa bản xác nhận quyền Miranda vào để làm chứng cứ. “Thưa thẩm phán, tôi không hỏi gì thêm,” cô ta nói.
Tôi đứng dậy, cài lại nút áo vest, rồi bắt đầu hỏi. “Thám tử, lần đầu tiên ông gặp Jacob, mẹ cậu ấy cũng ở đó phải không?”
“Có.”
“Bà ấy ở đó suốt thời gian chứ?”
“Phải, đúng là thế.”
“Tốt,” tôi nói. “Còn lần thứ hai ông gặp Jacob thì sao? Mẹ cậu ấy có ở đó không?”
“Có.”
“Bà ấy là người đưa cậu ấy đến đồn theo yêu cầu của ông, phải không?”
“Đúng.”
“Nhưng khi bà ấy ngỏ ý muốn ở lại với cậu ấy, ông đã từ chối?”
“Phải,” Matson nói. “Bởi cậu ta mười tám tuổi rồi.”
“Đúng, nhưng ông cũng biết rằng Jacob bị tự kỷ, phải thế không?”
“Đúng là thế, nhưng với những cuộc nói chuyện trước đó, tôi không thấy có vấn đề gì khiến cậu ta không thể tham dự thẩm vấn được.”
“Mẹ cậu ấy đã bảo ông là cậu ấy gặp khó khăn với những câu hỏi. Bà đã bảo là cậu ấy bị hoang mang khi gặp áp lực, và cậu ấy không thực sự hiểu được những cách nói tinh vi,” tôi nói tiếp.
“Bà ấy đã giải thích đôi chút về hội chứng Asperger, nhưng tôi không để ý lắm. Tôi thấy cậu ta hoàn toàn đủ năng lực. Cậu ta biết hết mọi thuật ngữ pháp lý trên đời, và cậu ta quá mừng khi được nói chuyện.”
“Thám tử, khi ông nói cho Jacob những chuyện xảy ra trong quá trình mổ xác, cậu ấy đã trích một câu trong phim Sự im lặng của bầy cừu, phải không?”
Matson có vẻ bồn chồn. “Phải.”
“Thế nghĩa là cậu ấy thực sự hiểu mình đang làm gì sao?”
“Tôi cho là cậu ấy chỉ cố tỏ ra hài hước thôi.”
“Đấy không phải là lần đầu tiên Jacob dùng một câu thoại trong phim để trả lời câu hỏi của ông, phải không?”
“Tôi không nhớ được.”
“Vậy để tôi giúp ông,” tôi nói, và chuẩn bị đưa ra những chứng cứ có được nhờ trí nhớ siêu đẳng của Jacob. “Khi ông hỏi cậu ấy xem Jess và cậu bạn trai Mark có cãi nhau không, cậu ấy đã nói, ‘Tạm biệt bé yêu’ phải không?”
“Có vẻ là vậy.”
“Và cậu ấy đã dùng một câu thoại để nói với ông trong buổi thẩm vấn, phải không?”
“Phải.”
“Chính xác là thời điểm nào?”
“Lúc tôi hỏi tại sao cậu ta lại làm chuyện đó.”
“Và cậu ấy nói?”
“Yêu nghĩa là không bao giờ phải nói hối tiếc.”
“Tội ác duy nhất mà Jacob Hunt đã phạm,” tôi cao giọng, “là trích lời thoại của một bộ phim ngớ ngẩn như Love Story.”
“Phản đối,” Helen nói. “Ta đang trong phiên kết luận sao? Bởi chưa thấy ai gửi thông báo cho tôi cả?”
“Chấp thuận,” thẩm phán nói. “Anh Bond, anh không cần đưa ra bình luận của mình.”
Tôi lại quay về phía Matson. “Buổi thẩm vấn ở đồn cảnh sát kết thúc như thế nào?”
“Đột ngột kết thúc,” ông thám tử trả lời.
“Thật ra là bà Hunt đã đến đó cùng với tôi, nói rằng con trai bà ấy muốn có luật sư, phải thế không?”
“Đúng.”
“Và khi bà ấy nói xong, Jacob đã nói gì?”
“Nói cậu ta muốn có luật sư,” Matson trả lời. “Và lúc đó tôi không thẩm vấn cậu ta nữa.”
“Tôi không hỏi gì thêm,” tôi nói rồi lại ngồi xuống cạnh Jacob.
Freddie Soto là một cựu cảnh sát, và con trai lớn của ông bị tự kỷ nặng. Sau khi làm việc cho cảnh sát Bắc Carolina trong nhiều năm, ông đi học trở lại và lấy bằng thạc sỹ tâm lý học. Hiện tại, ông chuyên dạy về chứng tự kỷ cho các lực lượng bảo vệ pháp luật. Ông cũng viết bài cho Tập san Lực lượng Bảo vệ Pháp luật FBI và tạp chí Sheriff. Ông là cố vấn cho ABC News trong chuyên mục 20/20 nói về chứng tự kỷ, luật pháp, và những lời khai không đúng sự thật. Ông đã góp phần phát triển giáo trình năm 2001 của Bắc Carolina dạy về những lý do khiến cảnh sát cần phải nhìn nhận chứng tự kỷ, và giờ giáo trình đó đang được sử dụng toàn cầu.
Mức phí để ông ra tòa làm chứng trên tư cách chuyên gia, là $15.000 cộng vé máy bay hạng nhất. Mà tôi thì làm gì lo được chừng đó. Nhưng chúng tôi đã trao đổi qua điện thoại, và khi biết tôi từng là thợ chăm sóc móng ngựa, ông đã kể là ông có một chú ngựa đua bị thương ở móng. Con trai ông rất thương chú ngựa này, và ông ta đã nỗ lực hết sức để nó không bị tiêm thuốc làm chết êm dịu. Nghe thế, tôi liền đề nghị ông dùng những miếng nệm để móng nó không bị bầm tím thêm, chêm vật nâng đỡ móng từ bên trong, và dùng vật liệu mềm để giảm sức nặng mà không làm biến dạng bộ móng. Và sau khi tiếp nhận những lời khuyên của tôi, ông bảo sẽ làm chứng miễn phí nếu tôi chấp thuận bay đến Bắc Carolina và khám cho chú ngựa của ông khi vụ này hoàn tất.
“Ông Soto, ông có thể cho chúng tôi biết liệu một người mắc hội chứng Asperger có gặp những khó khăn như người bị tự kỷ khi giao tiếp với cảnh sát không?” tôi hỏi.
“Tất nhiên là thế, bởi Asperger là một chứng tự kỷ. Ví dụ như, một người mắc chứng Asperger sẽ bị hạn chế về giao tiếp ngôn ngữ. Người đó còn gặp khó khăn trong việc lĩnh hội ngôn ngữ cơ thể, chẳng hạn như một động thái ra lệnh hay một tư thế phòng thủ. Người đó có thể lên cơn khi thấy đèn chớp hay nghe còi hiệu của cảnh sát. Việc người đó khó nhìn thẳng vào mắt người đối diện, có thể khiến cảnh sát nghĩ rằng họ không chịu lắng nghe. Người đó cũng có vẻ ngoan cố và giận dữ. Thay vì trả lời những câu hỏi của cảnh sát, người đó có thể cứ lặp lại những câu hỏi đó. Người đó khó mà nhìn ra cách nhìn nhận của người khác. Và người đó sẽ nói sự thật, luôn luôn nói sự thật.”
“Ông Soto, ông đã bao giờ gặp Jacob chưa?”
“Chưa.”
“Ông đã xem qua bệnh án của cậu ấy ở chỗ bác sĩ Murano chưa?”
“Rồi, hồ sơ kéo dài mười lăm năm,” ông nói.
“Trong bệnh án đó có điều gì có thể cho thấy Jacob mắc hội chứng Asperger không?”
“Theo những gì tôi biết,” ông Soto trả lời, “Jacob là một thanh niên rất thông minh, có vấn đề về giao tiếp bằng mắt, không giỏi giao tiếp lắm, nói chuyện bằng những lời thoại trong phim, có những hành vi kích động chẳng hạn như vung vẩy tay, và lặp đi lặp lại những bài hát như một cách để tự trấn an mình. Cậu ấy cũng không thể hiểu được những câu hỏi phức tạp, có vấn đề về không gian riêng, khó hiểu được ngôn ngữ cơ thể, và vô cùng thành thật.”
“Ông Soto,” tôi hỏi, “ông cũng đã đọc qua báo cáo của cảnh sát và biên bản ghi lại những lời của Jacob nói với thám tử Matson?”
“Phải.”
“Theo ông, trong thời điểm đó, Jacob có hiểu về quyền Miranda hay không?”
“Phản đối,” Helen nói. “Thưa thẩm phán, quyền Miranda là để ngăn chặn cảnh sát chủ ý vi phạm quyền cá nhân trong Tu chính án Thứ năm, tuy nhiên không có yêu cầu nào buộc cảnh sát phải biết rõ năng lực của cá nhân từng bị cáo cả. Việc đọc quyền Miranda là để xem liệu cảnh sát đó có chu toàn nghĩa vụ của mình hay không, và không cần phải lòng vòng hỏi xem Jacob Hunt có bị một chứng rối loạn không tên nào đó mà cảnh sát phải cần phải xác định rõ.”
Tôi thấy nhột bên hông, nhìn xuống thì thấy Jacob đưa cho tôi một mảnh giấy.
“Thưa thẩm phán,” tôi nói, và đọc chính xác từng chữ Jacob vừa viết: “Việc đọc quyền Miranda là để xem liệu bị cáo có nhận thức và tự nguyện từ bỏ quyền im lặng của mình hay không.”
“Bác bỏ phản đối,” thẩm phán nói, và tôi liếc xuống nhìn Jacob đang cười khoái chí.
“Xem cung cách của thám tử Matson, tôi thấy khả năng cao là Jacob không thực sự hiểu quyền Miranda trong thời điểm đó,” ông Soto nói tiếp. “Một cảnh sát có thể làm một số việc để bảo đảm người mắc chứng tự kỷ hiểu được những quyền của mình trong tình huống đó, và những phương thế đó đã không được áp dụng.”
“Chẳng hạn như?”
“Khi tôi đến các sở cảnh sát và làm việc với họ, tôi khuyên họ nói chuyện thật ngắn gọn, trực tiếp, và cho bị cáo một chút thời gian để trả lời. Tôi bảo họ tránh lối nói hình ảnh, như ‘Bạn đang kéo chân tôi à?’ Hay ‘Bạn nghĩ cái đó sáng chói sao?’ Tôi đề nghị họ nên tránh những lời nói hay hành động có tính đe dọa, bảo họ nên cho người đó trả lời, và đừng xem việc chần chừ hay không nhìn vào mắt người đối diện là dấu hiệu thiếu tôn trọng hay mặc cảm tội lỗi. Tôi bảo họ tránh chạm vào người đó, và phải biết là người đó nhạy cảm với ánh sáng, tiếng động, hay thậm chí là chó cảnh sát.”
“Ông Soto, để làm rõ vấn đề này, ông thấy trong phiên thẩm vấn đó có áp dụng cách nào như ông vừa nói không?”
“Không.”
“Xin cảm ơn,” tôi nói và ngồi xuống cạnh Jacob, còn Helen bước lên tra vấn nhân chứng của tôi. Tôi rất phấn khích, mà không, còn hơn cả phấn khích ấy chứ. Tôi vừa ra một đòn quyết định. Nói thật đấy, khi tìm được một chuyên gia như thế này, lại là trong một lĩnh vực mà chưa ai nghe tên, thì làm gì có ai thắng nổi lý lẽ của bạn chứ?
“Trong văn phòng của thám tử Matson có thứ gì gây kích động Jacob không?” Helen Sharp hỏi.
“Tôi không biết. Tôi không ở đó.”
“Vậy ông không biết ở đó có tiếng ồn hay ánh sáng chói mắt, phải không?”
“Tôi không biết, nhưng tôi khó mà thấy đồn cảnh sát là một nơi ấm cúng dễ chịu,” ông Soto nói.
“Vậy theo quan điểm của ông, để thẩm vấn hiệu quả một người mắc hội chứng Asperger, ông phải đưa họ đến Starbucks và mua cà phê latte vanilla cho họ sao?”
“Rõ ràng là không. Tôi chỉ nói rằng có thể dùng những phương pháp đó để cho Jacob được thoải mái hơn, và khi thoải mái hơn, cậu ấy sẽ nhận thức tốt hơn về những chuyện đang diễn ra thay vì bị tác động khiến cậu ấy nói hoặc làm bất kỳ điều gì để được ra khỏi đó nhanh nhất có thể. Một đứa trẻ mắc Asperger đặc biệt có khuynh hướng tạo lời chứng giả nếu như nó nghĩ đó là điều cảnh sát muốn nghe.”
Ôi trời, tôi muốn ôm Freddie Soto quá đi thôi. Tôi muốn giúp cho con ngựa của ông ấy chạy lại được.
“Ví dụ như,” Soto nói tiếp, “khi Jacob nói Ta xong chưa? Bởi tôi phải đi rồi, thì đó là một phản ứng rõ ràng khi bị kích động. Người nào hiểu về hội chứng Asperger sẽ nhận ra điều đó và cư xử nhẹ nhàng hơn. Nhưng theo biên bản thẩm vấn, thám tử Matson lại trút xuống đầu Jacob một loạt câu hỏi khiến cậu ấy càng hoang mang hơn nữa.”
“Vậy ông nghĩ là cảnh sát cần phải biết những điểm kích động của mọi bị cáo để có thể thẩm vấn hiệu quả hơn?”
“Tôi chắc rằng làm thế sẽ chẳng có hại gì.”
“Ông Soto, ông có biết rằng khi thám tử Matson hỏi Jacob xem cậu ta có biết quyền Miranda của mình không, Jacob đã tự mình đọc quyền Miranda thay vì chờ thám tử đọc cho?”
“Đúng là vậy,” Soto trả lời. “Nhưng Jacob cũng có thể đọc cho cô nghe toàn bộ hội thoại trong phim Bố già Phần II. Thế không có nghĩa là cậu ấy thực sự hiểu về những yếu tố cảm xúc trong bộ phim đó.”
Bên cạnh tôi, Jacob mở miệng định phản đối, và ngay lập tức, tôi nắm lấy cẳng tay cậu ấy đang đặt trên bàn. Jacob giật mình, quay qua nhìn tôi, và tôi lắc đầu, lắc thật mạnh.
“Nhưng làm sao ông biết là cậu ta không hiểu về quyền Miranda của mình?” Helen hỏi. “Chính ông đã nói là cậu ta rất thông minh. Và cậu ta đã bảo với thám tử là cậu ta hiểu chúng, phải không?”
“Đúng,” Soto thừa nhận.
“Và theo lời chứng của ông, chẳng phải ông cũng đã nói là Jacob vô cùng thành thật sao?”
Nhân chứng sắc sảo, ngôi sao của tôi, mở miệng rồi ngậm lại mà không nói lời nào.
“Tôi không hỏi gì thêm,” Helen nói.
Tôi đứng lên chuẩn bị thưa với thẩm phán là bên bị can cần tạm nghỉ, thì đột nhiên miệng tôi lại nói một chuyện hoàn toàn khác, “ông Soto,” tôi hỏi, “ông có đồng ý rằng có sự khác biệt giữa nhận thức thực sự về luật với một ký ức hình ảnh về luật không?”
“Có. Đấy chính xác là điểm khác biệt giữa một người mắc Asperger và một người thật sự hiểu quyền Miranda của mình.”
“Cảm ơn ông Soto, ông có thể đi xuống,” tôi nói rồi quay về phía thẩm phán. “Tôi muốn gọi Jacob Hunt bước lên bục.”
Chẳng ai hài lòng với quyết định này của tôi.
Trong giờ tạm nghỉ, tôi đã bảo Jacob là cậu ấy chỉ cần trả lời vài câu hỏi thôi. Tôi bảo cậu ấy được trả lời khi tôi hỏi, hoặc khi thẩm phán hay Helen Sharp hỏi, nhưng cậu ấy không được nói gì khác ngoài câu trả lời cho những câu hỏi đó.
Và lúc tôi đang nói thế, Emma cứ đi vòng vòng quanh hai chúng tôi, như thể đang tìm điểm yếu của tôi mà đâm con dao đang cầm sẵn trên tay. “Anh không thể để Jacob bước lên bục,” bà phản đối. “Làm thế sẽ khiến nó kích động. Nếu nó lên cơn thì sao? Trông nó sẽ thế nào đây?”
Tôi liền nói ngay, “Đó chính là chuyện tốt đẹp nhất có thể xảy ra đấy.”
Và chừng đó là đủ khiến bà im lặng ngay lập tức.
Giờ rõ ràng Jacob đang căng thẳng. Cậu ấy lắc lư trên ghế của bục nhân chứng, còn đầu thì nghiêng hẳn sang một bên. “Cậu có thể cho chúng tôi biết tên?” tôi hỏi. Jacob gật đầu.
“Jacob, cậu phải nói to và rõ. Thư ký đang viết ra những lời của cậu, và bà ấy phải nghe được tiếng cậu nói. Cậu có thể cho tôi biết tên của cậu không?”
“Có,” Jacob nói. “Tôi có thể.”
Tôi thở dài. “Tên cậu là gì?”
“Jacob Hunt.”
“Cậu bao nhiêu tuổi?”
“Mười tám.”
“Jacob, cậu có biết lời cảnh báo Miranda nói gì không?”
“Có.”
“Cậu nói cho tôi nghe được không?”
“Anh có quyền giữ im lặng. Bất cứ điều gì anh nói cũng sẽ được dùng để chống lại anh trước tòa. Anh có quyền có luật sư trước khi khai báo với cảnh sát và luật sư sẽ hiện diện khi cảnh sát thẩm vấn anh. Nếu anh không thể tìm được luật sư, anh sẽ được chính phủ cung cấp một luật sư trước khi trả lời các câu hỏi.”
“Jacob,” tôi hỏi, “cậu có hiểu thế nghĩa là gì không?”
“Phản đối,” Helen lên tiếng vừa lúc Jacob bắt đầu đấm vào cạnh bục nhân chứng.
“Tôi sẽ rút lại câu hỏi,” tôi nói. “Jacob, cậu có thể cho tôi biết Tu chính án Thứ hai của Hiến pháp nói gì không?”
“Vì một lực lượng dân quân quy củ là cần thiết cho an ninh của một đất nước tự do, quyền của người dân được nắm giữ và mang vũ khí sẽ không thể bị xâm phạm.” Jacob trích đọc.
Siêu quá, tôi nghĩ thầm. “Câu đó nghĩa là gì, Jacob?”
Cậu ấy ngập ngừng. “Mày sẽ bắn bay mắt mày đấy, nhóc!”
Thẩm phán cau mày. “Câu đó từ phim Câu chuyện Giáng Sinh à?”
“Phải,” Jacob trả lời.
“Jacob, cậu không biết ý nghĩa thực sự của Tu chính án Thứ hai phải không?”
“Tôi biết. Vì một lực lượng dân quân quy củ là cần thiết cho an ninh của một đất nước tự do, quyền của người dân được nắm giữ và mang vũ khí sẽ không thể bị xâm phạm.”
Tôi nhìn lên thẩm phán. “Tôi không hỏi gì thêm.”
Tôi chưa kịp ngồi xuống, thì Helen đã đứng sẵn rồi. Tôi nhìn sang thấy Jacob đang rụt người vào ghế. “Cậu có biết thám tử Matson muốn nói chuyện với cậu về chuyện đã xảy ra với Jess không?”
“Có.”
“Cậu sẵn sàng nói chuyện với thám tử về chuyện đó phải không?”
“Phải.”
“Cậu có thể cho tôi biết từ bỏ quyền của mình nghĩa là gì không?”
Tôi nín thở khi Jacob có vẻ ngập ngừng. Rồi chầm chậm, nhưng quá tuyệt vời, Jacob mở nắm đấm tay phải đang kê sát thành bục nhân chứng, rồi đưa bàn tay lên đầu, giật tới giật lui hệt như thanh gõ trong máy đánh nhịp.