← Quay lại trang sách

- 5 - Emma

Tôi giận điên người khi Oliver giở chiêu. Chẳng phải anh ta là người đã bảo đưa Jacob lên bục nhân chứng sẽ chỉ gây hại cho vụ này sao? Ngay cả khi hiện giờ không có bồi thẩm, mà chỉ có thẩm phán, nhưng thế cũng đủ để làm khổ Jacob rồi. Đẩy nó vào một tình thế chắc chắn sẽ khiến nó lên cơn, chỉ để nói với thẩm phán rằng Thấy chưa, tôi đã bảo ông rồi. Thật là tàn bạo và vô lý, hệt như nhảy từ nóc cao ốc để gây chú ý, biết trước mình sẽ chẳng còn sống để tận hưởng cái mục đích vớ vẩn đó vậy. Nhưng Jacob vẫn đứng vững. Nó không hoảng lên, cả khi cái cô công tố viên tắc kè bắt đầu hỏi dồn nó. Tôi chưa từng tự hào về nó đến thế.

“Tôi đã nghe đủ chứng cứ rồi,” thẩm phán Cuttings nói. “Tôi đã theo dõi bị cáo, và tôi không tin là cậu ấy tự nguyện từ bỏ quyền Miranda của mình. Tôi cũng tin là thám tử Matson đã từng được báo cho biết rằng bị cáo có rối loạn phát triển, nhưng chẳng làm gì để xác định khuyết tật đó. Tôi dự định ban hành quyết định xóa bỏ lời khai của bị cáo tại đồn cảnh sát.”

Khi thẩm phán ra khỏi phòng, Oliver quay lại và đưa tay ra dấu ăn mừng với tôi, còn Helen Sharp thì cúi mặt thu dọn giấy tờ. “Tôi chắc chắn sẽ giữ liên lạc với anh,” Helen nói với Oliver.

“Cô ta nói vậy là sao?” tôi hỏi Oliver.

“Cô ta sẽ theo đuổi vụ này mà không cần lời khai của Jacob. Thế nghĩa là bên công tố phải vất vả hơn rồi.”

“Thế thì tốt,” tôi mở cờ trong bụng.

“Quá tốt ấy chứ,” Oliver hớn hở.

“Jacob,” tôi quay sang nó, “con quá giỏi.”

“Ta về được chưa?” Jacob hỏi. “Con đói rồi.”

“Vậy thì về thôi.” Jacob đứng dậy và đi ra phía cửa. “Cảm ơn anh,” tôi nói với Oliver, rồi sải bước theo Jacob. Đi được nửa đường đến cửa, tôi quay người lại. Oliver đang huýt sáo một mình, lấy áo khoác vắt lên tay. “Nếu ngày mai anh muốn ăn trưa với chúng tôi… thì thứ Sáu là ngày xanh dương,” tôi nói với anh ta.

Oliver ngước lên. “Xanh dương? Khó đấy. Ngoài việt quất, yogurt và Jell-O xanh, thì còn gì nữa chứ?”

“Bắp xanh. Khoai tây xanh. Popsicles xanh. Cá xanh.”

“Thế là không đúng màu xanh rồi,” Oliver nhận xét.

“Đúng,” tôi trả lời, “nhưng vẫn dùng được.”

“Tôi luôn thích nước Gatorade màu xanh,” Oliver nói.

Trên đường về nhà, Jacob ngồi ở băng sau đọc báo. “Họ đang xây một ngân hàng mới, nhưng nó sẽ chiếm mất bốn mươi chỗ đậu xe,” nó kể cho tôi nghe. “Có một ông đã bị đưa đến Fletcher Allen sau khi lao chiếc môtô vào đống tuyết bên đường.” Rồi Jacob gấp báo lại. “Hôm nay thứ mấy?”

“Thứ Năm.”

Giọng nó reo lên háo hức. “Ngày mai lúc ba giờ, Tiến sĩ Henry Lee sẽ diễn thuyết tại Đại học New Hampshire, và mở cửa tự do!”

“Sao mẹ thấy cái tên đó quen quen?”

“Mẹ,” Jacob nói, “ông ấy là nhà khoa học pháp y nổi tiếng nhất mọi thời đại. Ông đã điều tra hàng ngàn vụ, như vụ tự sát của Vince Foster, vụ giết người của JonBenet Ramsey và vụ của O. J. Simpson. Ở đây còn có số điện thoại để hỏi thông tin này.” Nó bắt đầu lục ví tôi để tìm điện thoại.

“Con đang làm gì thế?”

“Gọi điện đặt chỗ.”

Tôi nhìn nó qua kính chiếu hậu. “Jacob. Ta không thể đi gặp Tiến sĩ Lee. Con không được phép rời khỏi nhà, chứ chưa nói đến ra khỏi bang.”

“Hôm nay con đã rời khỏi nhà đấy thôi.”

“Hôm nay khác. Con đi đến tòa mà.”

“Mẹ không hiểu rồi. Đây là Henry Lee đấy. Cơ hội cả đời có một. Đâu phải con xin đi xem phim. Hẳn Oliver có thể xin tạm hoãn án hay gì đó để con được đi.”

“Mẹ không nghĩ thế đâu, con yêu.”

“Vậy mẹ không định thử làm gì sao? Mẹ cứ thế cho rằng câu trả lời sẽ là không.”

“Đúng thế đấy,” tôi bảo nó, “bởi nếu không để con bị quản thúc tại gia thì chỉ còn cách nhìn con bị ném lại vào tù thôi. Mẹ chắc chắn trăm phần trăm là ông giám đốc nhà tù cũng sẽ không cho con một ngày hoãn án để con đi nghe Henry Lee diễn thuyết đâu.”

“Con cá là sẽ được, nếu con kể cho ông ta nghe về Henry Lee.”

“Jacob, không bàn chuyện này nữa,” tôi nói.

“Hôm qua mẹ đã ra khỏi nhà…”

“Đó là chuyện hoàn toàn khác.”

“Tại sao? Thẩm phán đã bảo mẹ phải canh chừng con liên tục mà.”

“Mẹ, hoặc một người trưởng thành khác…”

“Thấy chưa, ông ấy đã cho mẹ ngoại lệ…”

“Bởi mẹ không phải là người…” tôi liền im bặt khi nhận ra mình định nói gì.

“Người gì?” Jacob gằn từng chữ. “Người đã giết người?”

Tôi rẽ xe vào nhà. “Mẹ không nói thế, Jacob.”

Nó cứ tảng lờ nhìn ra cửa xe. “Mẹ không cần phải nói gì hết.”

Trước khi tôi kịp trở tay, Jacob đã nhảy ra khỏi xe lúc tôi vẫn còn chưa dừng hẳn. Nó chạy băng qua Theo đang khoanh tay đứng trước cửa. Một chiếc xe lạ đang đỗ trên lối vào, trong xe là một người đàn ông.

“Con đã cố bảo ông ta đi,” Theo nói, “nhưng ông ta muốn đợi mẹ về.” Nói xong, nó quay lưng đi vào nhà, và để lại tôi đối diện với một ông nhỏ con hói đầu, có chòm râu hình chữ W. “Bà Hunt?” ông ta hỏi. “Tôi là Farley McDuff, người sáng lập trang Đa dạng Thần kinh Quốc gia. Có lẽ bà đã nghe tiếng chúng tôi rồi?”

“Tôi e là chưa…”

“Đấy là một trang blog để giúp mọi người tin rằng phát triển thần kinh bất thường đơn giản chỉ là sự khác biệt của con người, và nên lấy đó làm vui chứ đừng chữa trị làm gì.”

“Nghe này, giờ không phải là lúc thích hợp để…”

“Không còn thời điểm nào thích hợp hơn lúc này đâu, bà Hunt à. Để những người tự kỷ đứng lên đòi sự tôn trọng họ xứng đáng có được. Thay vì để kiểu thần kinh điển hình hủy hoại sự đa dạng, chúng tôi tin vào một thế giới mới chấp nhận sự đa dạng thần kinh.”

“Thần kinh điển hình,” tôi lặp lại lời ông vừa nói.

“Là một cách gọi khác của ‘bình thường’ đấy mà,” ông nói. “Thần kinh điển hình là như bà đấy.” Ông ta cười với tôi, nhưng tôi không thèm nhìn quá một giây. Ông ta liền nhét vào tay tôi một tờ quảng cáo

CHỨNG ĐA SỐ - Một tình trạng chưa được công nhận

Chứng Đa số là một tình trạng mất khả năng phát triển đang tác động đến 99% dân số trong những lĩnh vực chức năng tâm thần, bao gồm tự nhận thức, sự chú ý, năng lực cảm xúc, và phát triển giác quan. Các tác động bắt đầu ngay từ khi mới sinh, và không thể chữa trị. May mắn thay, số người bị tác động bởi chứng đa số ngày càng giảm, song song với một nhận thức tốt hơn về chứng tự kỷ.

“Ông đùa tôi đấy à,” tôi nói. Tôi bước vòng qua ông ta để vào nhà.

“Tại sao nghĩ rằng một người cảm nhận nỗi đau buồn của người khác một cách quá đỗi mãnh liệt là ảo tưởng chứ? Hay tại sao bắt chước người khác để hòa nhập vào đám đông thì dễ chấp nhận hơn là làm những gì mình thích bất kỳ lúc nào mình thích? Tại sao không nghĩ rằng nhìn thẳng vào mắt một người lạ hoặc xâm phạm không gian riêng của người đó khi bắt tay chính là hành động thô lỗ chứ? Vì sao bám chặt vào một chủ đề ban đầu lại bị xem là thiếu năng lực giao tiếp, sao không thể xem thay đổi chủ đề dựa theo lời nói của người kia mới là khiếm khuyết kia chứ? Sao không xem những lúc người ta quên mất không nhận ra những thay đổi trong môi trường sống của mình là khiếm khuyết năng lực tâm thần, như lúc một chiếc áo chuyển từ hộc tủ này đến hộc tủ khác chẳng hạn.”

Những lời ông nói khiến tôi nghĩ đến Jacob. “Tôi phải đi đây…”

“Bà Hunt, chúng tôi nghĩ mình có thể giúp con trai bà.”

Tôi ngập ngừng. “Thật sao?”

“Bà có biết Darius McCollum là ai không?”

“Không.”

“Ông sống ở Queens, New York, một người đam mê bất kỳ thứ gì liên quan đến vận chuyển. Vào thời điểm ông đi chuyến tàu E từ Trung tâm Thương mại Thế giới đến Quảng trường Herald, ông chỉ hơn Jacob hiện giờ vài tuổi. Ông lên xe buýt thành phố để đi dạo. Ông bẻ gãy phanh khẩn cấp trên tàu N, rồi đóng giả một nhân viên giao thông để tự tay sửa cái phanh đó. Ông còn đóng giả chuyên viên cố vấn an toàn đường sắt. Ông đã bị kết tội hơn mười chín lần. Ông cũng mang hội chứng Asperger.”

Tôi thấy rùng mình, nhưng không phải vì trời lạnh. “Sao ông lại kể chuyện này với tôi?”

“Bà biết John Odgren chứ? Ở tuổi mười sáu, ông dã đâm chết một học sinh tại trường trung học ở Sudbury, Massachusetts. Trước đó, ông đã nhiều lần bị tịch thu dao và súng giả khi mang chúng đến trường, nhưng ông chưa từng có tiền sử bạo lực. Ông mang hội chứng Asperger, và có hứng thú đặc biệt với vũ khí. Nhưng vì vụ đâm người đó, mà người ta nghĩ rằng Asperger và bạo lực có liên quan đến nhau. Trong khi thực sự thì các chuyên gia y khoa nói rằng chẳng có liên hệ gì giữa chứng Asperger và bạo lực, và những đứa trẻ được chẩn đoán bị rối loạn thường là nạn nhân hơn là kẻ thủ ác.” Ông tiến tới một bước. “Chúng tôi có thể giúp bà. Chúng tôi có thể tập hợp cộng đồng tự kỷ để loan tin này. Cứ tưởng tượng mọi bà mẹ sẽ ủng hộ bà một khi họ nhận ra đứa con tự kỷ của mình có thể sẽ bị những kẻ thần kinh điển hình tấn công. Và lần này không chỉ tấn công để cố sửa chữa những người tự kỷ, mà có thể còn là cố buộc cho họ tội giết người trong khi đó chỉ là một chuyện hiểu lầm.”

Tôi muốn nói rằng Jacob vô tội, nhưng tôi không thể thốt ra được lời đó. Tôi không muốn con trai tôi làm cái biển quảng cáo cho bất kỳ chuyện gì. Tôi chỉ muốn lấy lại cuộc sống như tôi từng có. “Ông McDuff, làm ơn ra khỏi nhà tôi, nếu không tôi sẽ gọi cảnh sát.”

“Thật tiện lợi khi họ đã biết rõ con đường nhanh nhất đến đây,” ông nói, nhưng rồi cũng lùi lại đi về phía xe. Ông đứng ngập ngừng nơi cửa xe, và khóe miệng hé một nụ cười buồn. “Bà Hunt, đây là một thế giới thần kinh điển hình. Chúng ta chỉ là người choán chỗ mà thôi.”

Vào nhà, tôi thấy Jacob đang ngồi cạnh máy tính. “Mỗi vé giá $35,” nó nói mà chẳng quay lại nhìn tôi.

“Con có bao giờ nghe về một nhóm tên là Đa dạng Thần kinh Quốc gia chưa?”

“Chưa. Sao thế?”

Tôi lắc đầu và ngồi xuống cạnh giường nó. “Không có gì”!

“Theo MapQuest, phải mất ba tiếng mười tám phút để đến đó.”

“Đến đâu?” Tôi hỏi.

“Đại học New Hampshire chứ đâu. Mẹ không nhớ à? Tiến sĩ Henry Lee ấy.” Nó cho chiếc ghế đang ngồi xoay một vòng.

“Jacob, con không được đi. Thế thôi. Mẹ rất tiếc, nhưng mẹ chắc là thế nào Tiến sĩ Lee cũng sẽ diễn thuyết lần nữa mà.”

Chẳng lẽ đến lúc đó con đã vào tù sao?

Suy nghĩ đó thoáng qua đầu tôi như có ai vừa ném đá vào kính cửa sổ vậy, một cảm giác tôi không muốn chút nào. Tôi bước lại bàn và nhìn Jacob chăm chăm. “Mẹ cần hỏi con một chuyện,” tôi nói rất khẽ. “Mẹ cần hỏi con một chuyện, bởi mẹ vẫn chưa từng hỏi, và mẹ cần chính miệng con nói ra câu trả lời… Jess chết rồi. Con giết cô ấy sao?”

Mặt nó sa sầm. “Con không làm.”

Tôi thở hắt ra. Tôi vòng tay ôm chặt Jacob đang sững sờ vì cái ôm bất ngờ. “Cảm ơn con,” tôi thầm thì. “Cảm ơn con.”

Jacob không nói dối tôi. Nó không thể. Nó cố, nhưng rõ ràng là tôi chỉ cần thinh lặng một lát là nó hoảng lên và thừa nhận sự thật.

“Mẹ phải nhận ra là giam con trong ngôi nhà này suốt nhiều tuần hay nhiều tháng cũng có thể xem là một hành vi tội ác. Mẹ thấy là bố mẹ tốt không đối xử với con cái mình như thú vật trong chuồng mà.”

“Ngay cả khi ta nhờ Oliver đến tìm thẩm phán để xin cho con một ngoại lệ, thì Tiến sĩ Lee cũng đã diễn thuyết xong trước khi thẩm phán sắp xếp phiên giải trình rồi, con thấy được thế chứ?” Tôi chỉ ra cho nó. “Mẹ chắc là buổi đó sẽ được thu âm. Ta có thể nghe lại được mà.”

“Nhưng không như nhau được!” Jacob hét lên.

Những gân cổ nó đang nổi lên, nó gần mất tự chủ nữa rồi. Tôi cố nói với một giọng êm ái hết sức. “Hít một hơi thật sâu đi. Chứng Asperger của con đang bộc phát đấy.”

“Con ghét mẹ,” Jacob nói. “Chuyện này chẳng liên quan gì đến chứng Asperger của con cả. Mà là mẹ đang biến con thành nô lệ trong nhà của mẹ thôi.” Nó gạt tôi qua một bên và đi thẳng ra hành lang.

Tôi dùng hết sức bình sinh để giữ nó lại. Tôi biết là không nên, nhưng nhiều lúc Jacob tỏ thái độ khinh thường quá đáng, tôi không thể kìm lại lời lẽ của mình. “Con bước ra cánh cửa đó, thì sáng mai con sẽ ngồi trong tù. Và lần này, mẹ thề, mẹ sẽ không cố cứu con ra đâu. Có thể mẹ thấp hơn con 15 phân, nhẹ hơn con 20 cân, nhưng mẹ vẫn là mẹ con, và mẹ đã nói không nghĩa là không.”

Jacob cố vùng tay tôi ra, nhưng rồi chỉ trong vài giây, nó thả lỏng người đứng yên. Nó quay lại, thả người xuống giường và lấy gối che lên mặt.

Không nói lời nào, tôi ra khỏi phòng nó và đóng cửa lại. Tôi dựa lưng vào tường một lát, thở phào nhẹ nhõm. Tôi đã tự nhủ rằng lý do trước đây tôi chưa trực tiếp hỏi Jacob có phải nó giết Jess không, là bởi tôi sợ nó sẽ thất vọng khi đến cả tôi cũng tin có thể nó làm chuyện đó. Nhưng lý do thật sự khiến tôi phải chờ lâu đến thế, là bởi tôi sợ phải nghe câu trả lời của nó. Biết bao nhiêu lần tôi đã hỏi Jacob nhưng trong lòng lại mong nó có thể cho tôi nghe một lời nói dối vô hại.

Mẹ có nhiều nếp nhăn không?

Mẹ vừa làm mấy cái bánh này, theo công thức mới đấy. Con nghĩ sao?

Mẹ biết con giận, nhưng con không ước là em trai con không bao giờ sinh ra, phải chứ?

Ngay cả hôm nay trên bục nhân chứng, chuyên gia mà Oliver tiến cử cũng nói rằng những đứa trẻ mang hội chứng Asperger không nói dối bao giờ.

Nhưng mà.

Jacob đã bảo tôi là Jess không nói chuyện với nó vào hôm thứ Ba đó, nhưng nó không nói với tôi là Jess đã chết.

Jacob đã bảo tôi là nó đã đến nhà của Jess, nhưng lại không nói về chuyện lúc nó đến nhà cửa đã bị xáo tung.

Và nó không bao giờ nói mình đem tấm mền cầu vồng đi đâu.

Đúng là nó đã nói với tôi sự thật. Nhưng nó cũng đang nói dối bằng cách bỏ sót chi tiết.

“Mẹ?” Theo gọi. “Con nghĩ là con làm cháy máy nướng bánh rồi…”

Tôi vội vã lao xuống lầu. Đến lúc dùng hai con dao gỡ được hai chiếc bánh vòng ra khỏi máy nướng, tôi đã thuyết phục mình rằng mọi chuyện Jacob chưa kể cho tôi chỉ là do bỏ sót, một hiệu ứng phụ của chứng Asperger khi nó có quá nhiều thông tin và có thể quên sót gì đó.

Tôi tự thuyết phục mình rằng không đời nào Jacob chủ tâm làm thế.