← Quay lại trang sách

- 5 - Emma

Từ cột báo của Dì Em:

Gửi Dì Em,

Gần đây, cháu mơ về bạn trai cũ của mình. Cháu có nên xem đây là dấu chỉ linh thiêng, và nhấc máy gọi anh ấy không?

Người mất ngủ ở Strafford

Gửi Người mất ngủ,

Có, nhưng cháu không nên kể cho cậu ấy là cháu gọi bởi đã mơ thấy cậu ấy. Trừ phi cậu ấy nói, “Chúa ơi, thật quá lạ lùng khi hôm nay em gọi anh, bởi anh vừa mơ thấy em tối qua.”

Dì Em

Buổi hẹn hò đầu tiên, tôi là người ngỏ lời mời Henry, bởi có vẻ như anh ấy không nhận ra chút dấu hiệu tình trong như đã mặt ngoài còn e của tôi. Chúng tôi cùng đi xem phim Hồn ma rồi đi ăn. Và trong bữa ăn, Henry bảo tôi rằng xét theo khoa học thì không thể có ma. “Đây đơn thuần là chuyện vật lý và toán học căn bản,” anh nói. “Patrick Swayze không thể đi xuyên tường và bám sát Demi Moore như hình với bóng được. Nếu ma có thể theo sát ai đó, thế nghĩa là bàn chân của ma tác động một lực trên sàn. Nếu ma đi qua tường, thì ma lại không có thực thể. Ma không thể nào vừa có thực thể vừa phi thực thể được, không thể nào cùng lúc có cả hai thứ được. Thế là đi ngược định luật Newton.”

Anh đang mặc chiếc áo thun với dòng chữ HOÀN TOÀN ĐÁNG CHÁN, và mái tóc màu râu bắp mềm mượt của anh cứ rủ xuống mắt. “Nhưng anh không ước giá mà ma có thật sao?” Tôi hỏi anh.

“Em không ước tình yêu quá mạnh để nó có thể trở lại ám em đấy chứ?”

Tôi kể cho anh một chuyện về mẹ tôi. Một đêm nọ bà tỉnh giấc lúc 3:14 sáng, miệng đầy cánh hoa violet và trong phòng sực nức mùi hoa hồng đến nỗi bà không thở được. Một tiếng sau, một cuộc gọi đánh thức bà dậy. Bà ngoại tôi, một người trồng hoa, đã chết vì trụy tim lúc 3:14 sáng. “Khoa học không thể có lời giải cho mọi thứ,” tôi bảo Henry. “Nó không giải thích được tình yêu.”

“Thật ra là có đấy,” anh bảo tôi. “Người ta đã nghiên cứu đủ kiểu về chuyện này rồi. Chẳng hạn như, họ đã xác định rằng người ta thấy người có những nét đối xứng thì lôi cuốn hơn. Và phụ nữ thích đàn ông đối xứng hơn. Còn nữa, những người có nét di truyền giống nhau thường đến với nhau. Có lẽ chuyện này liên quan đến tiến hóa.”

Tôi bật cười. “Kinh quá,” tôi nói. “Đây là chuyện phi lãng mạn nhất em từng nghe đấy.”

“Anh không nghĩ thế…”

“Ồ, thật hả? Nói gì đó khiến em đổ gục đi nào.”

Thế là Henry nhìn tôi một hồi lâu, đến khi tôi thấy đầu mình bắt đầu quay quay. “Anh nghĩ em là người đối xứng hoàn hảo đấy,” anh nói.

Lần hẹn hò thứ hai, Henry đưa tôi đến Boston. Chúng tôi ăn tối ở Parker House, rồi anh thuê một chiếc xe ngựa đưa chúng tôi dạo quanh công viên Boston Common. Lúc đó là cuối tháng 11, sương giá đóng trên những cành cây trụi lá, và khi chúng tôi yên vị trên xe ngựa, anh xà ích đưa cho chúng tôi một tấm chăn dày để đắp chân. Chú ngựa rất hăng, nó giậm chân và hí vang.

Henry đố tôi một câu. “Tỷ lệ chu vi lều tuyết của người Eskimo so với bán kính là bao nhiêu?”

“Em chịu thôi.”

“Là số π Eskimo,” anh nói. “Còn nửa bộ ruột lớn là gì?”

“Em không biết…”

“Là dấu chấm phẩy.”

“Đấy đâu phải chuyện cười toán học hay khoa học gì đâu,” tôi nói.

“Anh là người thời Phục hưng mà.” Henry cười khoái chí. “Tám đồng hào?”

Tôi lại lắc đầu.

“Hai học thuyết,” anh nói.

Những câu đùa của anh, rõ ràng chẳng có chút gì hài hước. Nhưng khi chúng phát ra trên môi Henry thì khác. Đôi môi có khóe và luôn có vẻ gượng gạo khi cười, đôi môi đã hôn chúc tôi ngủ ngon trong buổi hẹn hò đầu tiên và khiến tôi ngạc nhiên khi nó dữ dội và mãnh liệt đến thế.

Tôi đang ngắm đôi môi anh thì con ngựa đổ gục tiêu đời.

Đúng ra không phải là tiêu đời. Nó bị trượt chân trên một lớp băng, và chân trước oằn đi. Tôi nghĩ mình đã nghe thấy một tiếng “rắc”.

Chúng tôi chậm rãi xuống xe, Henry nghiêng người để đỡ tôi. “Em ổn chứ?” anh hỏi và giúp tôi đứng xuống. Anh quấn chăn quanh người ủ ấm cho tôi, trong lúc cảnh sát và thú y đến. “Đừng nhìn,” Henry nói khẽ và che mặt tôi lại khi viên cảnh sát rút súng ra.

Tôi cố tập trung vào dòng chữ trên áo thun của Henry sau lớp áo khoác. PROTON NÀY KHIẾN KHỐI LƯỢNG CỦA TÔI TRÔNG BÉO BỰ? Nhưng tôi nghe thấy một tiếng như thể trái đất gãy làm đôi, và điều cuối cùng tôi nhớ là mình đã tự hỏi ai lại mặc áo thun vào mùa đông cơ chứ, mà nếu thế nghĩa là da anh ấy luôn luôn ấm và nếu tôi được nằm trên làn da ấm đó thì sao nhỉ.

Tôi thức dậy trong một căn phòng lạ. Những bức tường màu kem, một tủ đồ bằng gỗ màu sẫm, trên đó là chiếc tivi. Phòng rất sạch sẽ và… như trong công ty vậy. Mày đã ngất, tôi tự nhủ. Sực nhớ ra, tôi kêu lên, “Con ngựa!”

“Phải,” một giọng khẽ nói. “Nó đang kéo xe ngựa trên trời rồi.”

Tôi quay qua thì thấy Henry đứng dựa vào tường, trên người vẫn mặc áo khoác. “Anh đâu tin vào thiên đàng,” tôi nói khẽ.

“Không, nhưng anh nghĩ em thì có. Em… em ổn chứ?”

Tôi gật đầu nhè nhẹ, có vẻ thận trọng. “Có chuyện gì sao? Chẳng phải phụ nữ cứ ngất xỉu bên anh suốt à?”

Henry cười ngặt nghẽo. “Em có gì đó giống như thời Victoria quá.”

“Ta đang ở đâu thế?”

“Anh vừa lấy một phòng ở Parker House. Anh nghĩ em cần phải nằm một lát.” Má anh ấy bỗng đỏ bừng. “Anh chỉ không muốn em hiểu nhầm.”

Tôi chống tay ngồi dậy. “Anh không muốn à?”

“Ừ thì… kh…không, nếu em muốn thế,” anh lắp bắp.

“Thế là hơi giống thời Gothic đấy,” tôi nói. “Henry, em hỏi anh một chuyện được không?”

“Được.”

“Anh đứng đó làm gì vậy?”

Tôi đưa tay ra và cảm thấy tấm nệm oằn xuống khi Henry ngả lên giường. Tôi thấy môi anh ấy kề môi tôi và tôi nhận ra mối quan hệ này sẽ không như tôi tưởng. Hóa ra tôi phải làm giáo viên cho anh chàng nghiện khoa học ngại ngùng này. Đáng ra tôi phải biết chuyện này khi đứng xem Henry làm việc trong văn phòng. Các lập trình viên làm việc chậm rãi và tinh tế, rồi chờ xem chương trình vận hành thế nào. Và nếu không thành công trong lần đầu, họ sẽ thử đi thử lại, cho đến khi phá vỡ hết mọi chướng ngại và bắt nó theo ý mình.

Về sau, lúc tôi mặc chiếc áo thun của Henry còn anh thì ôm lấy tôi, lúc chúng tôi mở tivi và xem chương trình về bộ linh trưởng ở Congo mà không cần mở loa, lúc anh cho tôi ăn ức gà trong bảng thực đơn dành cho trẻ em của khách sạn, tôi nghĩ mình thật thông minh khi thấy ra những điều mà người khác không thấy ở Henry. Phía sau chiếc áo thun ngớ ngẩn, tiệm cà phê Star Wars anh hay ghé, cách anh khó lòng nhìn thẳng vào mắt phụ nữ, là một con người nâng niu tôi như trứng, người chăm chú cao độ vào tôi đến nỗi thỉnh thoảng những lúc chúng tôi làm tình, tôi phải nhắc anh hít thở. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng đến một lúc nào đó Henry sẽ có thể yêu bất kỳ ai khác ngoài tôi, tất nhiên là trừ những đứa con chúng tôi sinh ra. Tôi chưa từng tưởng tượng được mọi đam mê của chúng tôi lại hội tụ trong mã di truyền của Jacob, chờ đợi một cơn bão càn quét đến tận gốc rễ và phơi bày chứng tự kỷ.

Henry đã đứng đợi sẵn lúc tôi xuống máy bay. Tôi bước về phía anh, rồi ngượng ngập dừng lại cách anh một bước. Tôi cúi người tới ôm anh vừa lúc anh quay người về phía bảng báo giờ chuyến bay, nên hai tay tôi chỉ ôm lấy không khí. “Nó sẽ hạ cánh trong hai mươi phút nữa,” Henry nói.

“Tốt,” tôi trả lời. “Thế là tốt.” Tôi nhìn Henry, “Em thật sự rất tiếc vì chuyện này.”

Henry chăm chằm nhìn về hành lang sau cổng an ninh. “Emma, em sẽ cho anh biết đang có chuyện gì chứ?”

Trong năm phút, tôi kể cho anh nghe về Jess Ogilvy, về vụ án. Tôi kể cho anh là tôi chắc Theo đã trốn chạy bởi nó có liên quan gì đó đến chuyện này. Vừa nói xong, tôi nghe thấy tiếng loa phóng thanh gọi một hành khách sắp trễ chuyến bay, rồi lấy hết can đảm nhìn vào mắt Henry.

“Jacob bị khởi tố tội giết người?” anh nói, giọng run run. “Và em chẳng cho anh biết sao?”

“Nói cho anh, rồi anh sẽ làm gì?” Tôi đanh giọng. “Bay về Vermont để làm hiệp sĩ áo trắng của chúng em sao? Em không chắc sẽ thế đâu, Henry à.”

“Và khi tin này lan đến báo đài ở đây thì sao? Làm sao anh giải thích với hai đứa con gái bốn và bảy tuổi của anh rằng người anh cùng cha khác mẹ của chúng là kẻ giết người đây?”

Tôi giật nảy mình như thể anh vừa giáng vào mặt tôi một cái tát vậy. “Em sẽ vờ như anh chưa từng nói thế,” tôi mấp máy. “Và nếu anh hiểu con trai mình, nếu anh thực sự dành thời gian cho Jacob thay vì chỉ gửi ngân phiếu mỗi tháng để xoa dịu lương tâm, thì anh nên biết là nó vô tội.”

Cằm Henry bỗng giật giật. “Em còn nhớ chuyện gì xảy ra vào hôm kỷ niệm năm năm ngày cưới không?”

Khoảng thời gian đó, lúc chúng tôi tìm đủ mọi phương cách chữa trị để giúp Jacob kết nối lại với thế giới, quả thật là vô cùng đen tối.

“Chúng ta ra ngoài xem phim, lần đầu tiên được đi riêng với nhau sau vài tháng. Và đột nhiên một kẻ lạ mặt bước vào, cúi xuống và bắt đầu nói chuyện với em, rồi một phút sau em đi ra theo ông ta. Anh ngồi đó suy nghĩ. Gã này là tên nào và đời mình sẽ đi về đâu với hắn cơ chứ? Và anh theo em đi ra hành lang. Hóa ra đấy là bố của cô giữ trẻ, và là một nhân viên cấp cứu. Livvie đã gọi ông ấy bởi cô bé đang hoảng lên, còn Theo thì chảy máu đầm đìa. Ông đã đến nhà chúng ta, băng bó cho Theo, rồi đến báo cho em.”

Tôi nhìn Henry trân trối. “Em không nhớ gì về chuyện đó.”

“Theo phải khâu đến mười mũi ở lông mày,” Henry nói. “Bởi Jacob nổi điên và đánh em nó ngã từ ghế cao xuống, lúc Livvie đang không để ý.”

Giờ thì tôi nhớ rồi… Cơn kinh hoàng khi về nhà thấy Jacob hoàn toàn mất trí và Theo thì kêu khóc không ngừng với một cục băng to bằng nắm tay nhỏ xíu của nó trên mắt trái. Henry lo đưa Theo đến bệnh viện, còn tôi ở lại xoa dịu Jacob. Tôi không biết làm sao anh ấy lại nhớ mãi ký ức kia. “Em không thể tin là em quên mất chuyện đó rồi,” tôi nói khẽ.

Henry ngước nhìn ra xa. “Em luôn giỏi trong chuyện chỉ thấy những gì mình muốn thấy,” anh trả lời.

Rồi đột nhiên, cả hai chúng tôi đều thấy con trai mình.

“Cái quái gì thế này?” Theo nói.

Tôi khoanh tay lại. “Mẹ cũng nghĩ hệt như thế đấy,” tôi đáp lại.

Thật lạ khi ở sân bay mà không phải để mừng hội ngộ hay tiễn biệt chia ly. Còn lạ hơn nữa khi ngồi ở băng sau xe của Henry và nghe anh nói chuyện vui vẻ với Theo như thể Theo không đủ thông minh để biết là đến lúc này nó đã bị gắn bom hẹn giờ trên người rồi.

Khi Theo vào nhà vệ sinh ở sân bay, Henry nảy ra một kế hoạch. “Để anh nói chuyện với nó,” Henry bảo.

“Nó không nghe anh đâu.”

“Nó đã bỏ em mà đi đấy thôi,” Henry chỉ cho tôi thấy.

Xa lộ ở đây trắng tinh và sạch bong, chẳng có những mảng băng choán mặt đường như ở Vermont. Thật là sáng sủa, vui vẻ và mới lạ. Chẳng lạ gì khi Henry thích nơi này. “Theo,” tôi nói, “con đang nghĩ gì thế?”

Nó vặn vẹo người trong ghế. “Con muốn nói chuyện với bố.”

Henry nhìn tôi qua gương chiếu hậu. Anh đã bảo em rồi.

“Bố từng nghe về chiếc điện thoại này chưa?”

Nhưng trước khi Henry trả lời, anh đã tấp xe vào lề. Ngôi nhà anh lợp ngói Tây Ban Nha, và trong sân có một lâu đài nhựa cho trẻ con. Cái đó khiến tôi nhói lòng.

Meg, vợ mới của Henry, mở tung cửa chính. “Tạ ơn trời,” cô nói, vỗ tay khi thấy Theo ngồi ở ghế trước. Cô nhỏ người, với hàm răng trắng tinh và mái tóc vàng cột đuôi gà. Henry đến với Meg ngay, để mặc tôi xoay xở với vali trong cốp xe. Hai người mắt xanh tóc vàng hoe đứng kề nhau, trông hệt như tấm áp phích cho thành phần tinh túy của giống nòi Aryan. “Theo,” Henry nói, hệt như một người cha dù đã quá muộn, “vào thư viện và nói chuyện một lát nào.”

Tôi muốn căm ghét Meg, nhưng không làm được. Ngay lập tức cô khiến tôi ngạc nhiên khi khoác tay tôi và dẫn vào nhà. “Chị hẳn phải lo lắng dữ lắm,” cô nói. “Em thì chắc chắn sẽ sợ chết khiếp thôi.”

Cô mời tôi cà phê và một miếng bánh chanh, trong khi Theo và Henry đi sâu vào trong nhà. Tôi không biết có phải nhà này lúc nào cũng có bánh hay không, có phải Meg là bà nội trợ lúc nào cũng bảo đảm có bánh ngon tự làm trong nhà, hay là cô vừa chạy đi mua một cái lúc Henry báo là tôi sẽ đến. Tôi không chắc chuyện gì sẽ khiến tôi thấy buồn hơn.

Con gái của cô, và cũng là của Henry, đang đứng ở ngưỡng cửa phòng khách nhìn trộm tôi. Chúng đúng là những tiểu yêu tóc vàng xinh xắn. Một cô bé mặc chiếc váy xòe đính đá màu hồng. “Các con,” Meg gọi. “Lại đây gặp cô Hunt nào.”

“Emma,” tôi buột miệng nói. Tôi không biết các cô bé này nghĩ người lạ cùng họ với mình này là ai. Tôi không biết Henry có từng kể cho chúng về tôi hay không.

“Đây là Isabella,” Meg nói, chạm khẽ vào cô bé cao hơn đang đội chiếc vương miện. “Và đây là Grace.”

“Xin chào,” “Chào cô,” chúng đồng thanh, và Grace cho ngón tay vào miệng.

“Chào các cháu,” tôi trả lời rồi chẳng biết nói thêm gì nữa.

Henry cảm thấy cuộc sống thứ hai của anh được cân bằng, khi có hai con gái thay vì con trai sao? Grace kéo áo mẹ nó và thì thầm vào tai.

“Nó muốn cho cô thấy thành quả lớp ballet của nó,” Meg giải thích.

“Ồ, tôi thích ballet lắm,” tôi nói.

Grace đưa hai tay lên không và nhón chân. Con bé bắt đầu quay vòng tròn, chỉ hơi chao đảo một chút thôi. Tôi vỗ tay khen nó.

Jacob thường quay vòng tròn. Đấy là kiểu kích động của nó lúc còn nhỏ. Nó quay ngày càng nhanh cho đến khi va phải thứ gì đó, thường là một chiếc bình, và làm vỡ luôn thứ đó.

Nhìn con bé tôi biết sẽ không có chuyện này, nhưng vẫn không ngăn được suy nghĩ, nếu Grace bé nhỏ bị tự kỷ thì Henry có trốn chạy lần nữa hay không?

Linh thật, tôi vừa nghĩ thế xong thì Henry bước vào phòng. “Em nói đúng,” anh bảo tôi. “Nó không chịu nói chuyện nếu không có em.” Chút tự hào tôi vừa có lập tức tiêu tan khi thấy cách Grace nhìn bố nó. Con bé dừng xoay và lao vào anh như một cơn lốc. Anh bồng Grace lên rồi vuốt tóc Isabella. Nơi Henry có sự tự tại mà tôi chưa thấy bao giờ, một sự tự tin khi biết mình ở nơi hợp với mình. Tôi có thể thấy điều đó lộ ra trên khuôn mặt anh, trên những đường chân chim lúc anh cười, một chuyện tôi chưa từng thấy lúc chúng tôi yêu nhau.

Meg bồng Grace từ tay anh và dắt tay Isabella. “Để bố con nói chuyện với bạn bè của bố đã,” cô nói.

Bạn bè! Tôi yêu anh ấy, tôi có con với anh ấy, và giờ quan hệ chúng tôi là thế này đây.

Tôi theo Henry vào hành lang đến căn phòng Theo đang ngồi đợi. “Gia đình anh,” tôi nói, “thật hoàn hảo.”

Nhưng thật sự lòng tôi muốn nói, Sao em không xứng đáng được thế này cùng anh?