VỤ 9: CHIẾC ÁO PYJAMAS PHẦN IX - 1 - Theo
Sáng sớm ngày 17 tháng 2 năm 1970, cảnh sát ở Fort Bragg, Bắc Carolina, nhận được cuộc điện thoại của bác sĩ quân y Jeffrey MacDonald. Họ đến nơi thì thấy Colette, người vợ đang mang thai của ông và hai cô con gái đã chết vì nhiều vết dao đâm. Colette bị đâm ba mươi bảy mũi với hung khí là một con dao và một cây chọc đá, chiếc áo pyjamas bị xé toạc của ông đang đắp lên mặt bà. Ở tấm đầu giường là chữ CON HEO viết bằng máu. MacDonald nằm kế bên vợ, và chỉ bị vài vết thương nhẹ. Ông nói mình bị ba người đàn ông và một phụ nữ đội mũ trắng tấn công, bà này cứ hét lên “Axit là hợp thời, giết con heo.” MacDonald nói rằng khi những kẻ đó lao đến tấn công, ông đã kéo áo pyjamas lên quá đầu và dùng nó để chặn những cú đâm bằng dao và cây chọc đá. Cuối cùng ông bị đánh bất tỉnh.
Quân đội không tin lời ông ta. Chẳng hạn như họ thấy trong phòng khách không có dấu hiệu vật lộn, ngoại trừ một chiếc bàn và một chậu cây bị lật ngã. Cũng không tìm thấy những thớ vải từ chiếc áo pyjamas bị xé rách trong căn phòng theo lời ông kể, thay vào đó, người ta lại tìm thấy những thớ vải trong phòng ngủ của các con gái ông. Họ lập luận rằng MacDonald đã giết vợ và con gái, rồi cố che đậy tội ác bằng cách dùng những tình tiết như trong bài báo về vụ gia đình Manson, có trong một tạp chí mà người ta tìm thấy trong phòng khách nhà ông. Quân đội bỏ qua vụ này bởi thiếu công nghệ điều tra, và MacDonald được trả tự do, phục hồi danh dự.
Năm 1979, MacDonald buộc phải trước ra tòa án dân sự. Một nhà khoa học pháp y đã kiểm tra phần trên chiếc áo pyjamas mà ông bác sĩ nói đã dùng nó để che chắn thân mình, và chứng minh rằng nó có 48 lỗ hình trụ hằn rõ, nhưng lại quá chỉn chu so với một chiếc áo bị tấn công. Để tạo nên một cái lỗ như thế, thì ông phải đứng bất động, một chuyện khó có thể xảy ra khi ông đang cố gắng chống cự một kẻ đang cố đâm ông. Nhà khoa học gấp chiếc áo lại, và cho thấy 48 lỗ đó có thể tạo nên chỉ bằng 21 nhát đâm, cũng là số lần mà Colette MacDonald đã bị đâm bằng cây chọc đá. Các lỗ trên áo tương xứng với những vết thương trên người Colette, cho thấy chiếc áo đó đã được đặt trên người của bà lúc bà bị đâm chứ không phải được MacDonald dùng để tự vệ như lời ông ta nói. MacDonald bị tuyên án tù chung thân vì ba tội giết người và đến giờ vẫn khăng khăng rằng mình vô tội.
* TheoĐây không phải là lần đầu tiên tôi phải đánh vật để bắt anh trai tôi mặc áo vest và cà vạt. “Chúa ơi, Jacob, thôi đi, trước khi anh lại lỡ tay làm bầm mắt em bây giờ,” tôi rên rỉ, đưa hai tay anh lên khỏi đầu và bẻ lui sau, trông hệt như một con cá mắc cạn vậy. Mẹ tôi cũng cố hết sức để thắt cà vạt cho anh, nhưng Jacob giãy giụa dữ quá nên trông cái cà vạt chẳng khác gì chiếc thòng lọng.
“Mẹ có cần phải cài nút chỗ đó không?” Tôi hét lên, nhưng có lẽ mẹ chẳng nghe thấy đâu. Jacob át hết tất cả bằng một tiếng hét ở âm vực cao nhất. Tôi cá là hàng xóm có thể nghe thấy tiếng anh, và tôi không biết họ sẽ nghĩ gì nữa. Có lẽ họ nghĩ chúng tôi đang lấy kim chọc vào mắt anh cũng nên.
Mẹ tôi đang tìm cách thắt chặt một trong mấy chiếc nút nhỏ xíu trên cổ áo kiểu Oxford, thì bị Jacob cắn vào tay. Mẹ kêu khẽ và rút tay ra khỏi cổ anh, thế là vẫn còn một nút chưa cài được. “Thế này được rồi,” mẹ nói, vừa lúc Oliver mở cửa vào để đón cả nhà chúng tôi đến dự ngày đầu tiên của phiên tòa.
“Tôi đã gõ cửa,” anh nói, nhưng rõ ràng làm sao chúng tôi nghe được tiếng gì dưới lầu cơ chứ.
“Anh đến sớm đấy,” mẹ tôi trả lời. Mẹ vẫn đang mặc áo choàng tắm.
“Để xem sản phẩm hoàn chỉnh nào,” Oliver nói, và cả hai mẹ con tôi đồng loạt bước lui tránh xa Jacob.
Oliver nhìn anh một hồi lâu. “Cái này là cái quái gì thế?” anh hỏi.
Được rồi, tôi sẽ thừa nhận với các bạn, Jacob không thắng nổi giải thời trang nào đâu, nhưng anh đang mặc áo vest và cà vạt đúng chuẩn. Anh mặc một chiếc áo vest vải nhân tạo màu lòng đỏ trứng mà mẹ tôi vớ được ở một cửa hàng giảm giá. Một chiếc sơmi màu vàng nhợt, với cà vạt thun vàng óng.
“Trông cậu ấy như thằng ma cô vậy,” Oliver nói.
Mẹ tôi mím môi. “Hôm nay là thứ Tư màu Vàng mà.”
“Tôi không quan tâm hôm nay có phải ngày Chủ Nhật Chấm bi hay không,” Oliver nói. “Và mọi người trong bồi thẩm đoàn cũng thế. Emma à, đây là bộ vest Elton John mặc đi tập nhạc, chứ không phải bộ vest để bị cáo mặc đến tòa.”
“Đây là chuyện thỏa hiệp mà,” mẹ tôi nhất quyết không đổi ý.
Oliver lấy tay vuốt dài từ trán xuống cằm. “Chẳng phải ta đã nói là mặc vest xanh sáng rồi mà?”
“Thứ Sáu mới là ngày màu xanh dương,” Jacob nói. “Lúc đó tôi sẽ mặc bộ đó.”
“À tình cờ thay, hôm nay cậu cũng mặc bộ đó luôn,” Oliver trả lời. Anh liếc qua tôi. “Tôi muốn cậu giúp tôi, trong khi mẹ cậu đi thay đồ.”
“Nhưng…”
“Emma, giờ tôi không có thời gian để tranh cãi với bà,” Oliver quay qua mẹ.
Mẹ tôi đã định mặc bộ váy xám xanh đơn giản với một chiếc áo len xanh. Tôi đã đứng đó xem Oliver lục tung tủ đồ của mẹ để thỏa mãn cái tính đàn bà ẩn giấu của mình, rồi chọn ra một bộ mà anh ta gọi là “màu tối và vừa phải.”
Mẹ tôi nổi giận đi ra khỏi phòng Jacob. Tôi khoanh tay lại. “Tôi vừa nhét anh ấy vào trong đống áo quần đó. Không đời nào tôi lại lôi anh ấy ra đâu.”
Oliver nhún vai. “Jacob, cởi nó ra.”
“Rất hân hạnh,” Jacob hớn hở, rồi cởi sạch áo quần trong vòng vài giây.
“Lấy chiếc áo sơ mi sọc dọc, chiếc áo vest nhẹ, và cà vạt đỏ,” Oliver vừa nói vừa nhìn qua tủ áo quần của Jacob đang mở sẵn. Ngay khi tôi vừa liếc mắt qua đó, thì Jacob cũng đã thấy bộ áo quần đúng kiểu anh ghét, lại không đúng màu của hôm nay nữa, thế là anh hét lên một tiếng kinh thiên động địa.
“Trời đất ơi,” Oliver rên khẽ.
Tôi cầm lấy tay Jacob và lại bẻ nó lên quá đầu anh. “Anh chẳng thấy gì hết,” tôi bảo.
Lần cuối cùng tôi phải mặc áo vest và cà vạt cho anh trai mình là khi chúng tôi đến dự đám tang ông ngoại. Hôm đó mẹ tôi như một người khác vậy, vì thế mà Jacob không làm ầm ĩ về chuyện áo quần như hôm nay. Lúc đó, cả hai anh em chúng tôi đều chẳng có áo vest và cà vạt, nên mẹ phải đi mượn đồ của ông chồng nhà hàng xóm. Chúng tôi đều còn nhỏ, nên bộ vest trên người cứ lụng thụng suốt. Chúng tôi ngồi trong phòng tang lễ mà như đang bơi trong bộ vest, như thể trước khi cơn đau buồn này ập đến chúng tôi từng bự con hơn hẳn vậy.
Thực tế, tôi không biết nhiều về ông ngoại, ông ở nhà an dưỡng từ lúc bà tôi mất, và mẹ đưa chúng tôi đến thăm ông mỗi năm hai lần. Nhà đó có mùi khai khai, và tôi khiếp vía khi thấy những ông già ngồi xe lăn với làn da chảy xệ nhợt nhạt bọc trên những khớp xương. Ký ức đẹp duy nhất tôi có về ông ngoại là lúc tôi ngồi trên đùi ông khi còn rất nhỏ, và xem ông làm ảo thuật hô biến đồng tiền. Hơi thở ông có mùi whiskey và mái tóc bạc của ông hệt như bờm ngựa Brillo.
Nhưng ông chết rồi, và tôi nghĩ mình nên có cảm giác gì đó… bởi nếu không thì tôi chẳng hơn gì Jacob.
Hầu hết thời gian đó, mẹ để chúng tôi tự chơi với nhau trong khi mẹ nhận lời phân ưu của những người mà mẹ chẳng biết tên. Tôi ngồi cạnh Jacob, còn anh cứ chăm chăm nhìn về quan tài. Nó màu đen, đặt trên hai giá kê đẹp bọc khăn đỏ. “Jacob,” tôi nói khẽ. “Anh nghỉ sau đó sẽ thế nào?”
“Sau chuyện gì?”
“Sau… anh biết mà. Khi anh chết. Anh có nghĩ mình vẫn được lên thiên đàng dù anh chẳng bao giờ đi lễ nhà thờ không?” Tôi ngẫm nghĩ một hồi. “Anh có nghĩ mình sẽ nhận ra người quen trên thiên đàng không, hay nó sẽ hệt như chuyển trường mới và làm lại từ đầu vậy?”
Jacob nhìn tôi. “Sau khi em chết, em sẽ phân hủy. Chỉ vài phút sau khi chết, giòi đã xâm nhập cơ thể. Đám ruồi xanh đẻ trứng nơi những vết thương hở hay những lỗ tự nhiên trước cả khi ta chết, và ấu trùng nở ra trong vòng 24 giờ. Và dù cho giòi không thể sống dưới đất, nhưng những kén nhộng sẽ được chôn sống trong quan tài, và làm công việc tàn phá của chúng từ bên trong.”
Tôi há hốc miệng.
“Sao nào?” Jacob lên giọng. “Em thật sự nghĩ ướp xác là giữ được mãi mãi sao?”
Sau đó, tôi không hỏi anh thêm câu nào nữa.
Khi Jacob bị nhét vào bộ áo quần mới rồi, tôi để Oliver lại xử lý anh hai gàn dở của mình và đi tìm mẹ. Mẹ không trả lời khi tôi gõ cửa, nên tôi đẩy cửa hé và nhìn vào phòng. “Ở đây này,” tiếng mẹ gọi từ trong tủ đồ.
“Mẹ,” tôi nói và ngồi xuống trên giường mẹ.
“Jacob mặc đồ xong chưa?” Mẹ ngoái đầu nhìn ra cửa.
“Khá ổn rồi? Tôi cầm một sợi chỉ trên chân của mẹ.
Mẹ luôn ngủ bên phía trái giường. Hẳn bạn nghĩ sau hơn chục năm ngủ một mình, mẹ đã sải tay sải chân và chiếm hết cả giường. Nhưng không phải thế. Có vẻ như mẹ vẫn chờ ai đó đến nằm ở phía giường bên phải.
“Mẹ,” tôi nói. “Con phải nói chuyện với mẹ.”
“Được thôi, con yêu. Nói đi.” Rồi mẹ lại giật mình quay đi, “Đôi giày cao gót đen đâu rồi hả trời?”
“Chuyện khá quan trọng. Là về Jacob.”
Mẹ bước ra khỏi tủ đồ và ngồi xuống cạnh tôi trên giường. “Theo,” mẹ thở dài. “Mẹ cũng sợ.”
“Không phải chuyện đó…” tôi nói.
“Chúng ta sẽ lo chuyện này hệt như mọi chuyện lâu nay ta vẫn làm cho Jacob,” mẹ hứa. “Cùng làm với nhau.”
Mẹ ôm tôi thật chặt, càng khiến tôi thấy mình khốn nạn hơn nữa, bởi tôi biết tôi phải nói những lời tôi định nói với mẹ.
“Trông mẹ thế nào?” mẹ đứng dậy, hỏi tôi.
Giờ tôi mới để ý bộ đồ của mẹ. Không phải chiếc váy kín kẽ cùng áo len xanh và chuỗi hạt ngọc trai mà Oliver đã chọn, nhưng là một bộ váy đi chơi màu vàng sáng hoàn toàn chẳng ăn nhập với thời tiết chút nào. Mẹ cười với tôi. “Hôm nay là thứ Tư Vàng mà.”