← Quay lại trang sách

- 2 - Jacob

Lần đầu tiên tôi bị sa thải là lúc làm cho một cửa hiệu thú cưng. Tôi không nói tên cửa hiệu đó đâu, bởi tôi không chắc chuyện này có được đăng báo không, mà hiện giờ tôi đã có đủ rắc rối với pháp luật quá rồi. Tuy nhiên, tôi phải nói, theo chủ quan, rằng tôi là nhân viên giỏi nhất của họ vậy mà họ vẫn cứ đuổi việc tôi.

Dù cho mỗi khi có ai mua một con corgi, tôi sẽ khuyến mãi thêm cho họ hàng đống thông tin. (Loài chó corgi đó có liên quan đến loài chó chồn! Tên của nó xuất xứ từ Welsh, và nghĩa là chó lùn!)

Dù cho tôi không trộm tiền của quầy như một trong những đồng nghiệp của tôi.

Dù cho tôi không mách lẻo về anh đồng nghiệp đó.

Dù cho tôi không thô lỗ với khách hàng và chẳng bao giờ thoái thác khi đến lượt tôi lau dọn phòng vệ sinh chung.

Sếp của tôi là Alan, một anh chàng mười chín tuổi và là ứng viên hoàn hảo để quảng cáo kem trị mụn. Một hôm anh ta bảo là khách hàng phàn nàn về ngoại hình của tôi.

Nhưng tôi đâu dính gì trên mặt. Tôi đâu chảy mũi thò lò. Tôi không mặc quần lửng như anh chàng đồng nghiệp tôi vừa nói ở trên. Thưa các quý ông quý bà trong bồi thẩm đoàn, việc duy nhất khiến tôi bị đuổi là bởi không chịu mặc đồng phục của cửa hàng. Nó là một chiếc áo cài nút màu xanh. Tôi mặc nó vào những ngày thứ Sáu, nhưng tôi chịu đựng hàng nút là quá đủ rồi, chẳng lẽ tôi phải mặc màu xanh trong những ngày dành cho màu khác sao?

Mà cũng chẳng ai phàn nàn về chuyện này cả. Và cũng chẳng có chút gì khó khăn để khách hàng nhận ra tôi là nhân viên, bởi dù không mặc đồng phục, nhưng tôi lại mang một tấm thẻ ghi chữ to đùng đến mẫu giáo còn đọc được, XIN CHÀO, TÔI TÊN LÀ JACOB, TÔI GIÚP GÌ ĐƯỢC CHO QUÝ KHÁCH?

Lý do thật sự khiến tôi bị đuổi là vì, sau vài tuần viện cớ này nọ với Alan về chuyện tôi không mặc đồng phục ngoại trừ những lần tình cờ tôi được xếp làm vào ngày thứ Sáu, cuối cùng tôi đã nói thật với anh ta rằng tôi bị tự kỷ và tôi có vấn đề với màu sắc, chưa kể chuyện mấy hột nút. Bất chấp lũ chó mến tôi vô cùng, bất chấp tôi bán được nhiều chó hơn tất cả những người khác cộng lại, bất chấp ngay lúc Alan ra lệnh sa thải, tôi thấy một nhân viên đang nhắn tin cho bạn trai thay vì gọi điện cho khách hàng và một nhân viên khác đang dán mắt vào màn hình tivi, bất chấp tất cả, tôi vẫn bị đem ra làm con dê tế thần chỉ vì khuyết tật của tôi.

Tôi đã nói thẳng về chứng Asperger của mình.

Tôi chỉ biết rằng trước khi tôi bảo Alan là tôi bị Asperger, anh ta vẫn vui vẻ chấp nhận những lời biện bạch của tôi, nhưng sau đó anh ta chỉ muốn tôi đi cho khuất mắt.

Chuyện đời tôi là thế đấy.

Chúng tôi lên xe Oliver đến tòa. Mẹ ngồi ghế trước, còn tôi và Theo ngồi băng sau. Hầu như suốt chuyến đi tôi dành để nhìn những thứ của hiếm từ trên trời rơi xuống, là những cảnh vật tôi chưa được nhìn lần nào kể từ khi bị quản thúc tại gia. Là nhà hàng Colony với bảng hiệu đèn neon. Cửa sổ đầy hình vẽ của hiệu thú cưng tôi từng làm việc, và tôi có thể thấy một đám cún con đang nô đùa trong đó. Rồi rạp hát nơi tôi gãy chiếc răng sữa đầu tiên, và ngã tư nơi một cậu thiếu niên đã chết vì một trận bão tuyết trên đường đến trường. Còn cả tấm bảng của Nhà thờ Restwood Bible với dòng chữ CÀ PHÊ MIỄN PHÍ! SỰ SỐNG BẤT DIỆT! GIA NHẬP ĐỂ CÓ ĐẶC ÂN!

“Được rồi,” Oliver nói khi rẽ vào bãi đỗ xe và tắt máy.

“Ta đi thôi.”

Tôi mở cửa, bước ra khỏi xe, và đột nhiên có hàng ngàn tiếng động lao vào tôi như những mũi tên, và ánh sáng chói lòa khiến mọi thứ chỉ còn một màu trắng. Tôi không thể đưa tay che cả tai và mắt, và trong tiếng thét của mình, tôi vẫn nghe thấy ai đó gọi tên tôi, nghe thấy giọng của mẹ và Oliver. Họ kéo đến đông đặc trước mắt tôi, những micro hệt như các tế bào ung thư, và chúng đang ngày càng tiến lại gần.

Tiếng Oliver: Chết tiệt, tôi nên tính đến chuyện này…

Tiếng mẹ tôi: Jacob, nhắm mắt lại đi, con yêu. Con có nghe mẹ nói không? Theo? Con giữ lấy anh con đi chứ?

Rồi có một bàn tay nắm lấy cánh tay tôi, nhưng chẳng biết đó là tay của em trai tôi hay của một người lạ, những người muốn cắt mạch máu tôi và để tôi chết khô, những người với đôi mắt đèn pha và miệng sâu hoắm muốn một mảnh của tôi để nhét vào túi và đem đi, cho đến khi chẳng còn gì nữa.

Tôi làm chuyện mà một người bình thường sẽ làm khi đối diện với đàn thú dữ đang nhe nanh và giương micro. Tôi chạy.

Tôi cứ nghĩ trong đầu rằng mình từng ở trong một chiếc lồng 6x12m. Tôi không đủ nhanh như mong muốn bởi tôi đang mang giày da, và tôi cũng là đứa hậu đậu, nhưng tôi tìm cách chạy đủ xa để không phải nghe những tiếng động đó nữa. Tôi không thể nghe thấy gì nữa rồi, nhưng gió đang luồn vào tai và hơi thở tôi.

Rồi đột nhiên, tôi bị ai đó lao đến đè xuống đất.

“Chết tiệt,” Oliver thở hồng hộc. “Tôi quá già để làm chuyện này rồi.”

Tôi gần như không mở miệng được, vì Oliver đang nằm trên người tôi. “Anh mới… hai mươi tám….”

Oliver lăn người qua một bên, và hai chúng tôi nằm dài một hồi trên nền gạch bên dưới một biển báo hiệu cây xăng. KHÔNG CHÌ $2,69.

Một hồi sau, Oliver mới nói, “Tôi xin lỗi. Tôi nên lường trước chuyện này.”

Tôi chống khuỷu tay lên để nhìn anh.

“Có rất nhiều người muốn xem vụ của cậu thế nào,” Oliver nói tiếp, “và tôi nên chuẩn bị trước cho cậu.”

“Tôi không muốn trở lại đó,” tôi nói.

“Jake, thẩm phán sẽ cho cậu vào tù ngay nếu cậu không quay lại.”

Tôi duyệt lại trong đầu danh sách các luật mà Oliver đã quy định hành vi của tôi trước tòa. Tôi không biết tại sao anh không ra luật như thế cho đám nhà báo, bởi rõ ràng, chĩa micro vào mũi tôi không thể xem là cư xử phải phép được. “Tôi cần khoảng nghỉ giác quan,” tôi tuyên bố, một trong những việc Oliver cho phép tôi làm tại tòa.

Anh ngồi dậy, bó gối trước ngực. Một chiếc xe tấp vào cách chúng tôi vài bước, và anh chàng vừa ra khỏi xe cứ nhìn chúng tôi lạ lẫm một hồi rồi mới rút thẻ đổ xăng. “Vậy thì khi vào đó, ta sẽ yêu cầu thẩm phán cho chúng ta khoảng nghỉ sớm nhất có thể.” Oliver nghiêng nghiêng đầu. “Cậu thấy sao, Jake? Cậu sẵn sàng cùng tôi chiến đấu chứ?”

Tôi chà mấy ngón chân vào vòm giày, chà đến ba lần để lấy may. “Sáng nay tôi ngửi thấy mùi bom napal,” tôi trả lời.

Oliver lảng mắt đi chỗ khác. “Tôi lo lắng,” anh thừa nhận.

Nghe câu này từ luật sư biện hộ của mình ngay trước khi vào tòa có vẻ không được hay cho lắm, nhưng tôi thích anh thành thật với tôi. “Anh nói sự thật.”

Đấy là một lời khen, nhưng Oliver lại nghĩ là một yêu cầu. Anh ngập ngừng. “Tôi sẽ cho họ biết vì sao cậu không có tội.” Rồi anh đứng dậy, phủi bụi quần. “Vậy cậu sẽ nói gì đây?”

Câu này luôn là một câu hỏi mánh. Hầu như lúc nào cũng là một lời thúc giục khi tôi chẳng chịu nói gì, nhưng tất nhiên, lúc bạn nói rằng bạn chẳng nói gì cả, lại là lúc bạn đã nói rồi.

“Tôi phải đi qua cả đống người đó lần nữa sao?” Tôi hỏi.

“Phải,” Oliver nói, “nhưng tôi có ý này.”

Anh dắt tôi đến rìa bãi đỗ xe, nơi mẹ và Theo đang lo lắng đợi sẵn. Tôi muốn nói với Oliver một chuyện, nhưng nó chẳng còn quan trọng so với vấn đề hiện thời rồi. “Nhắm mắt lại,” anh bảo, và tôi làm theo. Rồi anh cầm tay phải tôi, còn mẹ cầm tay trái tôi. Tôi vẫn nhắm mắt, nhưng bắt đầu nghe thấy những tiếng động ầm ầm lao đến, và thế là tiếng thét đã chực sẵn nơi cổ tôi rồi.

“Nào… hát đi!” Oliver bảo.

“Tôi đã bắn cảnh sát trưởng… Nhưng tôi không bắn cảnh sát phó…” rồi tôi ngưng lại, lẩm bẩm, “Tôi vẫn còn nghe thấy họ.”

Thế nên Theo cũng bắt đầu hát theo. Rồi đến Oliver, và mẹ tôi. Và chúng tôi, một bộ tứ hợp xướng mà chẳng hợp chút nào, cứ thế đi lên cầu thang tòa án.

Làm được rồi.

Có lẽ bởi quá ngạc nhiên trước thứ âm nhạc này, các nhà báo tách ra hệt như Biển Đỏ cho chúng tôi băng qua an toàn.

Tôi quá ngạc nhiên nên phải mất một hồi mới nhớ ra những lời mắc nghẹn nơi cổ họng tôi lúc đó.

1. Tôi đã nói với Oliver một lời tương đương với p: “Anh nói sự thật.”

2. Anh trả lời bằng một giá trị q: “Tôi sẽ cho họ biết vì sao cậu không có tội.”

3. Trong phương trình logic của cuộc nói chuyện này, tôi đã cho là p và q ngang bằng nhau.

4. Nhưng giờ tôi nhận ra không hẳn là thế.

Trước khi có Jess, tôi phải đi học kỹ năng xã hội ở trường. Ở các lớp này đầy những đứa khác với tôi, những đứa không hứng thú đặc biệt với việc hòa nhập xã hội. Robbie bị tự kỷ nặng và gần như suốt giờ học nó chỉ biết xếp bút chì màu thành một hàng từ đầu lớp đến cuối lớp. Jordan và Nia bị khuyết tật phát triển và hầu như chúng chỉ ở trong phòng học đặc biệt chứ chẳng bao giờ vào lớp học thường cả. Serafima có vẻ gần giống tôi nhất, dù cho nó mắc hội chứng Down. Nó muốn tham gia các hoạt động đến nỗi sẵn sàng lao ngồi trên chân người lạ và lấy hai tay ôm mặt họ, một chuyện thật dễ thương nếu nó mới sáu tuổi, nhưng đến lúc nó mười sáu tuổi thì chẳng ổn chút nào.

Lois, cô giáo của chúng tôi, có đủ loại trò chơi tương tác để lôi kéo chúng tôi. Chúng tôi chơi nhập vai và chào hỏi lẫn nhau như thể chúng tôi chưa từng học với nhau cả mấy tháng nay vậy. Chúng tôi phải thi nhìn vào mắt nhau, xem ai nhìn được lâu. Có lần cô dùng đồng hồ hẹn giờ để dạy chúng tôi là phải dừng nói khi người khác không thích chuyện mình đang nói và muốn đổi chủ đề, nhưng buổi học phải dừng lại sớm khi Robbie lên cơn lúc nghe thấy tiếng chuông báo.

Ngày nào chúng tôi cũng kết thúc buổi học bằng cách ngồi lại thành vòng tròn và khen ngợi nhau. Robbie lúc nào cũng nói cùng một câu, dù cho nó ngồi kế ai đi nữa. Tớ thích rùa núi. (Nó cũng giống tôi điểm này. Nó biết về rùa hơn bất kỳ ai mà tôi từng gặp và sẽ gặp, và nếu không nhờ nó thì tôi vẫn còn nhầm rùa núi với rùa biển.)

Jordan và Nia thì luôn khen dựa trên vẻ ngoài của người khác. Tớ thích tóc của cậu. Tớ thích cái váy đỏ của cậu.

Một hôm nọ, Serafima bảo tôi là nó thích tôi nói về ADN ty thể. Tôi quay qua nó và nói rằng tôi không thích nó nói dối, bởi lúc tôi nói về ADN nó đã đưa tay lên trời, một dấu hiệu chúng tôi đã thống nhất dùng mỗi khi thấy chán chủ đề nào đó.

Thế là cô Lois gọi báo cho mẹ tôi, và mẹ tôi tìm ra Jess.

Tôi cũng học với Jess cách khen ngợi người khác, nhưng nó khác hẳn. Chẳng hạn như, tôi thực sự muốn khen cô ấy. Tôi thích mái tóc lụa mềm mại như râu bắp của cô ấy, thích cách cô ấy cười với đôi giày của mình. Và khi tôi thao thao bất tuyệt về khoa học pháp y, cô ấy chẳng bao giờ đưa tay lên ra hiệu, mà lại còn hỏi tôi thêm nữa chứ.

Có vẻ như cô ấy muốn hiểu thêm về tôi, muốn biết trong đầu tôi có những gì. Mà đầu tôi hệt như mê cung vậy, bạn phải theo sát từng đường đi nước bước để biết tôi đang nói gì, nhưng tôi vô cùng ngạc nhiên khi Jess sẵn sàng dành thời gian để tìm hiểu tôi. Tôi cho là tôi dã không nghĩ đến chuyện mẹ tôi phải trả tiền để cô ấy làm thế, ít nhất là cho đến khi tên ngốc Mark Maguire nói ra chuyện đó trong quán pizza. Nhưng tôi vẫn thấy cô ấy không ngồi đó đếm từng phút phải chịu đựng tôi. Nếu thấy cô ấy, các bạn sẽ nhận ra như thế.

Buổi học với Jess mà tôi thích nhất là lúc chúng tôi tập mời một cô gái nhảy cùng. Chúng tôi đang ngồi ở tiệm Wendy, bởi chúng tôi bị kẹt lại do cơn mưa bất chợt. Trong thời gian chờ, Jess quyết định gọi vài thứ đồ ăn nhẹ, dù cho đồ ăn nhanh hiếm khi không có gluten và casein. Tôi đã gọi hai đĩa khoai tây nướng và một đĩa salad cắt nhỏ không dầu, còn Jess thì gọi một bánh mì kẹp thịt. “Cả khoai tây chiên cậu cũng không ăn được sao?” “Không,” tôi nói. “Là do lớp bọc khoai tây và dầu chiên. Chỉ ở Hooter mới có khoai tây chiên không gluten.”

Jess bật cười. “Phải rồi, vậy thì tôi không đưa cậu đến đó đâu.” Cô cười món khoai trắng trơn và dĩa salad không dầu của tôi. “Một chút bơ cũng không được à?”

“Trừ phi là bơ đậu nành.” Tôi nhún vai. “Tôi quen thế này rồi.”

“Vậy thì cái này,” cô vừa nói vừa mân mê chiếc bánh trên tay, “là nụ hôn tử thần với cậu rồi?”

Tôi thấy mặt mình bừng bừng. Tôi không biết cô ấy đang nói chuyện gì, nhưng chỉ cần nghe cô nói từ “hôn” là đã đủ để tôi cảm giác như trong miệng mình là bươm bướm thay vì dưa chuột. “Không phải do dị ứng đâu.”

“Thế nếu cậu ăn thứ này thì có sao không?”

“Tôi không biết. Tôi sẽ dễ buồn bực hơn, có lẽ thế. Chế độ ăn kiêng có hiệu quả, dù không rõ nguyên do.”

Cô nhìn vào cái bánh, rồi nhặt trong đó ra một hạt. “Có lẽ tôi cũng bỏ mấy món này đi thôi.”

“Cô có gì để buồn bực đâu,” tôi bảo.

“Làm sao cậu biết,” Jess nói rồi lắc đầu và quay trở lại chủ đề buổi học. “Làm đi. Ngỏ lời mời nào.”

“À…,” tôi nói mà mắt cứ dán vào đĩa khoai tây, “cô muốn nhảy cùng tôi không?”

“Không,” Jess phũ phàng. “Cậu phải thể hiện được mình, Jacob à.”

“Tôi… định khiêu vũ và tôi nghĩ bởi cô cũng sẽ khiêu vũ…”

“Huyên thuyên bát nháo quá,” Jess cắt lời.

Tôi cố bắt mình nhìn vào mắt Jess. “Tôi nghĩ cô là người duy nhất hiểu tôi.” Tôi ngập ngừng. “Khi ở với cô, thế giới dường như không còn là vấn đề ngoài tầm với nữa. Xin vui lòng khiêu vũ với tôi,” tôi nói, “bởi cô là âm nhạc của đời tôi.”

Jess há hốc. “Ôi trời, Jacob, tôi đồng ý,” cô hét lên và đột nhiên cô nhảy ra khỏi ghế, kéo tôi lại và ôm chầm tôi. Tôi có thể ngửi thấy mùi mưa nơi tóc cô, và tôi chẳng thấy phiền gì khi cô xâm phạm hoàn toàn không gian riêng của tôi. Tôi thích thế. Tôi quá thích thế đến nỗi tôi phải đẩy Jess ra trước khi cô ấy để ý hay tệ hơn nữa, là cảm nhận được cái cứng cứng đó đang ép vào người cô.

Một cặp vợ chồng già ngồi bên kia phòng đang mỉm cười nhìn chúng tôi. Tôi không biết họ đang nghĩ gì, nhưng có lẽ không ai nghĩ đây là một đứa trẻ tự kỷ đi cùng gia sư kỹ năng xã hội của mình đâu. Bà đó nháy mắt với Jess. “Có vẻ như đó là chiếc bánh kẹp mà cô sẽ không bao giờ quên.”

Có rất nhiều điều về Jess mà tôi sẽ không bao giờ quên. Như những móng tay sơn màu tím hoa cà ngày hôm ấy. Như chuyện cô ấy ghét nước sốt thịt. Như cách cô ấy cười, không phải cười khẽ e thẹn, mà là cười hết sức mình.

Chúng ta dành quá nhiều thời gian giao tiếp hời hợt với nhau. Bạn nhớ hết cả cảm giác vui vẻ lúc đó, nhưng chẳng nhớ rõ nó là gì.

Còn tôi sẽ không bao giờ quên bất kỳ chuyện gì về Jess.