← Quay lại trang sách

- 9 - Jacob

Nếu tôi không trở thành một điều tra viên hiện trường vụ án nổi tiếng, như Tiến sĩ Henry Lee, thì tôi sẽ trở thành nhân viên giám định y khoa. Thật sự chúng cùng là một việc mà thôi, chỉ khác nhau về bối cảnh làm việc. Thay vì khám nghiệm nguyên một ngôi nhà hay một cánh rừng để xác định được tình tiết vụ án, thì bạn lại làm chuyện đó từ thi thể người nằm trên bàn mổ xác.

Có nhiều điều khiến thân thể người chết có vẻ hay hơn thân thể người sống.

1. Họ không có biểu cảm khuôn mặt, nên chẳng phải lo sẽ nhầm lẫn nụ cười thật với cười mỉa, hay bất kỳ những chuyện vớ vẩn tương tự nào khác.

2. Họ không buồn chán nếu bạn nói chuyện sa đà.

3. Họ chẳng quan tâm bạn đứng quá gần hay quá xa họ.

4. Họ không xì xào về bạn khi bạn đi khỏi, cũng không kể lại với bạn bè rằng bạn thật phiền phức.

Từ một thi thể, bạn có thể tìm ra diễn biến của những chuyện đã xảy ra, xem thử có phải vết thương do súng bắn ở bụng đã gây ra viêm màng bụng và nhiễm trùng máu hay không, có phải những biến chứng là nguyên nhân tử vong, hay hội chứng suy hô hấp mới là nguyên nhân kết liễu cuộc đời họ. Bạn có thể xác định người đó chết trên cánh đồng hay là bị chất lên cốp xe rồi chở đến thả xuống cánh đồng. Bạn có thể chỉ ra người đó bị bắn vào đầu trước rồi mới bị thiêu trong lửa, hay ngược lại. Bởi khi gỡ hộp sọ ra, bạn có thể thấy máu bị rỉ ra do não bị nóng sôi, một tổn thương do lửa. Nhưng nếu không thấy dấu hiệu đó, thì thường nguyên nhân tử vong không phải do lửa. Và thừa nhận đi, bạn muốn biết chuyện này lắm phải không?

Vì mọi lý do trên, tôi vô cùng háo hức và chú ý khi bác sĩ Wayne Nussbaum bước lên bục nhân chứng. Tôi biết ông ấy, tôi từng thấy ông ta ở vài hiện trường vụ án rồi. Có lần tôi viết thư cho ông ấy và được ông ấy tặng chữ ký.

Ông tự viết về mình như thế này. Học Đại học Y khoa Yale, sau đó là học bệnh lý học và cấp cứu trước khi trở thành trợ lý giám định y khoa cho Tiểu bang New York, và cuối cùng là 20 năm với tư cách trưởng giám định y khoa ở Vermont.

“Ông đã thực hiện mổ xác Jess Ogilvy phải không?” Helen Sharp hỏi bác sĩ Wayne.

“Đúng. Vào chiều ngày 18-01,” ông nói. “Thi thể được đưa đến văn phòng của tôi vào ban sáng, nhưng phải chờ băng tan mới tiến hành được.”

“Khi tìm thấy cô ấy, nhiệt độ ngoài trời là bao nhiêu?”

“Âm 11 độ, hoàn hảo để bảo quản xác.”

“Trang phục của cô ấy thế nào?’

“Cô ấy mặc một chiếc quần nỉ, áo thun và áo khoác mỏng. Cô ấy có mặc áo ngực, nhưng quần lót thì mặc ngược. Có một chiếc răng gói trong giấy vệ sinh đặt trong chiếc túi nhỏ phía trước của quần nỉ, và điện thoại nằm trong túi áo khoác của cô ấy.”

Thường trong loạt phim CrimeBusters, khi một giám định viên đứng lên bục nhân chứng, ông chỉ nói tối đa năm phút mà thôi. Tuy nhiên, Helen Sharp buộc bác sĩ Nussbaum giải tích những kết luận của ông đến ba lần. Lần thứ nhất là nói suông, lần thứ hai là dùng biểu đồ cơ thể và bác sĩ chỉ rõ bằng bút đỏ, và cuối cùng là bằng những tấm hình ông đã chụp khi mổ xác. Tôi thì say mê từng phút của quá trình này. Tôi chẳng biết chút gì về cái bà trong bồi thẩm đoàn đang nhìn tôi như thể sắp nôn vậy.

“Bác sĩ, ông đã nói rằng ông đã lấy mẫu nước tiểu, máu ở tim, và thủy tinh dịch của Jess Ogilvy để xét nghiệm chất độc?”

“Đúng là thế.”

“Mục đích của các xét nghiệm đó là gì?”

“Chúng cho chúng tôi biết có chất ngoại lai nào trong máu của nạn nhân không. Máu ở tim và thủy tinh dịch giữ nguyên thành phần vào thời điểm nạn nhân tắt thở.”

“Kết quả cho thấy điều gì?”

“Jessica Ogilvy không có ma túy hay cồn trong cơ thể vào thời gian tử vong.”

“Ông có chụp hình thi thể trong khi mổ xác không?”

“Có,” ông nói. “Đấy là thủ tục.”

“Ông có diễn giải nào về các vết bất thường cũng như vết thâm tím trên thi thể không?”

“Có. Nạn nhân có các vết thâm tím trên cổ họng phù hợp với khả năng bị bóp cổ, và các vết thâm tím trên cánh tay phù hợp với khả năng bị khóa tay. Các vết thâm có màu tím đỏ và hình dạng sắc nét, cho thấy chúng xuất hiện trong vòng 24 tiếng trước khi nạn nhân tử vong. Hơn nữa, da ở vùng lưng dưới đã bị trầy xước sau khi chết, khả năng cao là do bị kéo đi. Cô có thể thấy sự khác nhau trong tấm hình, đây, hai loại vết thâm khác nhau. Vết thương sau khi chết có màu hơi vàng như da bò.” Ông chỉ sang một tấm ảnh khác chụp mặt của Jess. “Nạn nhân đã bị đánh thậm tệ. Cô ấy bị rạn xương sọ, những vết thâm quanh mắt, và vỡ mũi. Cô ấy mất một chiếc răng cửa.”

“Ông có thể xác định những vết thương này có trước hay sau khi chết không?”

“Vết thâm tím cho thấy đây là vết thương trước khi chết. Còn chiếc răng thì tôi không chắc, nhưng có vẻ nó là chiếc răng đã được nhét vào túi áo cô ấy.”

“Ông có thể đánh ai đó vào mặt mạnh đến nỗi gãy răng không?”

“Có thể,” bác sĩ Nussbaum nói.

“Một người bị đấm mạnh vào mặt có thể có những vết thương như ông thấy trên cơ thể nạn nhân không?”

“Có.”

“Bác sĩ,” Helen Sharp hỏi, “sau khi mổ xác và nghiên cứu kết quả xét nghiệm chất độc, ông có giả thuyết hợp lý về y khoa nào đối với cách thức tử vong không?”

“Có, tôi xem đó là một vụ giết người.”

“Đấy là nguyên do dẫn đến cái chết của Jess Ogilvy?”

“Chấn thương đầu nghiêm trọng, dẫn đến tụ máu màng cứng bên trong hộp sọ, tương đồng với chấn thương của một cú đấm hoặc một cú ngã.”

“Thời gian bao lâu thì người ta chết vì tụ máu màng cứng não?”

“Có thể ngay lập tức, có thể vài giờ. Trong trường hợp của nạn nhân, nó xảy ra khá sớm sau chấn thương.”

“Những vết thâm ông tìm thấy trên cổ và cánh tay của Jess Ogilvy có góp phần vào cái chết của cô ấy không?”

“Không.”

“Còn chiếc răng bị gãy?”

“Không.”

“Và không có ma túy hay cồn trong người cô ấy?”

“Không có.”

“Vậy, bác sĩ Nussbaum,” Helen Sharp nói, “nguyên nhân duy nhất của chấn thương gây tử vong cho Jess Ogilvy mà ông đã tìm thấy trong quá trình mổ xác là rạn hộp sọ dẫn đến xuất huyết nội trong hộp sọ?”

“Đúng là thế.”

“Đến phiên anh đấy,” cô công tố nói, và Oliver đứng dậy.

“Tất cả những vết thương ông tìm thấy trên thi thể Jess Ogilvy, ông có biết do ai đã gây ra không?”

“Không.”

“Và ông nói rằng tụ máu màng cứng có thể là hậu quả của một cú đấm hoặc một cú ngã.”

“Chính xác.”

“Bác sĩ, chẳng phải có khả năng là Jess Ogilvy đã trượt chân và ngã, rồi bị tụ máu màng cứng sao?”

Ông bác sĩ giám định ngẩng đầu lên, khẽ cười.

Đấy là nụ cười tôi ghét, kiểu cười ngụ ý Anh thông minh thật nhưng cũng có nghĩa là Thằng ngu. “Có thể Jess Ogilvy đã trượt chân và ngã, rồi bị tụ máu màng cứng,” bác sĩ Nussbaum nói. “Nhưng tôi vô cùng nghi ngờ chuyện cô ấy tự vấp chân mình, hoặc tự làm gãy răng mình, tự mặc ngược quần lót, lôi mình đi 200 mét, và quấn mình trong tấm mền trong một ống cống đấy.”

Tôi bật cười lớn, thật là một lời thoại hoàn hảo cho CrimeBusters. Mẹ tôi và Oliver đều quay lại nhìn tôi, và tôi hiểu ngay ý họ. Cả hai đều nổi giận đùng đùng rồi.

“Có lẽ giờ là lúc thích hợp để nghỉ tịnh tâm rồi đấy?” thẩm phán hỏi.

“Nghỉ giác quan!” Oliver đáp ngay. “Là khoảng nghỉ giác quan!”

Thẩm phán Cuttings hắng giọng. “Tôi sẽ xem đó là đồng ý.”

Trong phòng nghỉ giác quan, tôi thu mình nằm dưới tấm chăn dày. Mẹ tôi đã vào phòng vệ sinh. Theo thì ngả đầu trên chiếc gối rung. Nó nói qua kẽ răng hệt như người máy vậy. “Thọc lét tớ đi, Elmo,” nó pha trò.

“Jacob,” Oliver bắt đầu lên tiếng sau một phút ba mươi ba giây im lặng. “Hành vi của cậu trong phòng xử án khiến tôi rất giận đấy.”

“Hành vi của anh trong phòng xử án khiến tôi rất giận đấy,” tôi nói lại. “Anh vẫn chưa cho họ biết sự thật.”

“Cậu biết là vẫn chưa đến lượt của ta mà. Cậu đã xem các phiên tòa trên tivi rồi. Công tố viên tiến hành trước, rồi đến lượt chúng ta loại bỏ những chuyện Helen Sharp vừa làm. Nhưng mà Jacob, Chúa ơi. Mỗi lần cậu lên cơn, hoặc cười vào những lời của nhân chứng, là càng khiến ta bất lợi đấy.” Anh nhìn tôi. “Cứ tưởng tượng cậu là một bồi thẩm, và cậu có một đứa con gái trạc tuổi Jess, rồi bị cáo bật cười lớn khi viên giám định y khoa nói về cái chết khủng khiếp của Jess. Cậu nghĩ bồi thẩm đó sẽ tự nhủ thế nào?”

“Tôi không phải là bồi thẩm,” tôi nói, “nên tôi không biết được.”

“Câu cuối của ông giám định y khoa đó nói đúng là khá buồn cười mà,” Theo nói thêm.

Oliver trừng mắt với nó. “Tôi có hỏi ý kiến cậu sao?”

“Jacob có hỏi ý kiến anh sao?” Theo nói, rồi ném cho tôi một cái gối. “Đừng nghe anh ta,” Theo bảo tôi rồi nó lẩn ra khỏi phòng.

Tôi quay lại thì thấy Oliver đang nhìn tôi trừng trừng.

“Cậu có nhớ Jess không?”

“Có. Cô ấy là bạn tôi.”

“Vậy sao cậu không thể hiện điều đó?”

“Sao tôi lại phải làm thế?” Tôi hỏi, và ngồi dậy. “Tôi biết cảm giác của mình, thế là được. Có bao giờ anh nhìn một người cuồng loạn nơi công cộng, và tự hỏi không biết người đó làm thế bởi ông ta thấy mình thật sự khốn khổ hay bởi ông ta muốn mọi người biết rằng ông ta khốn khổ hay không? Nếu anh thể hiện cho cả thế giới thấy thì cũng như tự pha loãng cảm xúc của mình vậy. Khiến nó bớt thuần khiết.”

“Nhưng đa số mọi người lại không nghĩ thế. Khi phải nhìn vào những tấm ảnh mổ xác một người họ yêu thương, hầu hết mọi người đều đau buồn. Thậm chí là khóc.”

“Khóc sao? Anh đùa đấy à?” Tôi nhại lại một câu tôi đã nghe lũ bạn nói ở trường. “Tớ muốn bị giết để được mổ xác như thế.”

Oliver quay mặt đi. Tôi khá chắc là tôi đã nghe nhầm câu trả lời của anh ta.

Thật thế sao?