← Quay lại trang sách

- 10 - Rich

Chúng tôi đang pha trò về chuyện tòa àn có cả một phòng nghỉ giác quan. Nếu đã dành cho bị cáo những tiện nghi đặc biệt, sao nhân chứng lại không được thế chứ? Riêng tôi, muốn có một phòng đồ ăn Tàu. Tôi đã nói chuyện này với Helen Sharp khi cô đến báo rằng tôi sẽ là người tiếp theo lên làm chứng.

“Bánh bao hấp,” tôi nói, “đã được khoa học chứng minh là có tác dụng tăng sự tập trung. Và món gà hầm có tác dụng ép máu đủ mạnh để tăng lưu lượng máu lên não…”

“Vậy mà suốt thời gian qua tôi cứ tưởng khuyết tật của ông là bị ngắn…”

“Này!”

“… ngắn hạn chú ý,” Helen nói. Cô cười với tôi. “Ông có năm phút.”

Tôi nửa thật nửa đùa đấy. Bởi nếu tòa đã sẵn sàng chùn bước trước chứng Asperger của Jacob Hunt, còn bao lâu nữa sẽ đến lúc có tiền lệ cho một tên tội phạm chuyên nghiệp cứ khăng khăng bảo rằng vào tù sẽ làm trầm trọng hóa chứng sợ giam hãm của hắn đây? Tôi hoàn toàn ủng hộ sự bình đẳng, nhưng khi nó xói mòn hệ thống thì không.

Tôi quyết định đi xả hơi một lát trước khi tòa triệu tập lại, và vừa rẽ vào hành lang dẫn đến nhà vệ sinh, thì tôi va trực diện một phụ nữ đang đi ngược lại. “Ôi trời,” tôi nói, đưa tay giữ cô ấy. “Tôi xin lỗi.”

Emma Hunt ngước lên nhìn tôi với đôi mắt đẹp chết người của cô. “Tôi cá là thế,” cô nói.

Nếu có kiếp sau, nếu tôi nhận một công việc khác và cô có một đứa con khác, có lẽ chúng tôi có thể nói chuyện với nhau bên ly rượu, có lẽ cô sẽ cười với tôi thay vì nhìn tôi như thể vừa gặp ác mộng. “Bà sao rồi?”

“Anh không có quyền gì để hỏi tôi câu đó.”

Cô ấy cố băng qua tôi mà đi, nhưng tôi đã dang tay cản lại. “Tôi chỉ làm việc của mình thôi mà, Emma.”

“Tôi phải quay lại chỗ Jacob…”

“Nghe này, tôi rất tiếc khi bà gặp phải chuyện này, bởi bà đã phải trải qua nhiều chuyện đau lòng rồi. Nhưng hôm Jess chết, một bà mẹ khác đã mất đứa con của mình đấy.”

“Và giờ,” cô nói, “anh đang làm cho tôi mất con của tôi.” Cô gạt tay tôi ra. Và lần này, tôi để cô đi.

Helen mất đến mười phút để xác minh nhân thân của tôi, cấp bậc đại úy của tôi, quá trình đào tạo làm thám tử ở Townsend, chuyện tôi đã làm việc ở đây từ ngày xửa ngày xưa, và đủ thứ khác mà bồi thẩm đoàn muốn nghe để biết rằng trước mặt họ là một người vô cùng đáng tin cậy.

“Ông liên quan đến việc điều tra cái chết của Jess Ogilvy như thế nào?” Helen bắt đầu vào phần chính.

“Bạn trai cô ấy, Mark Maguire, đã đến đồn cảnh sát và báo cáo cô ấy mất tích, vào ngày 13-01. Anh ta không gặp cô ấy từ ngày 12 và không thể liên lạc với cô ấy. Cô ấy không có chuyến đi lên lịch sẵn nào cả, và bạn bè cũng như bố mẹ cô ấy cũng không biết cô đang ở đâu. Ví và áo khoác của cô vẫn còn nằm trong nhà, nhưng một số vật dụng cá nhân khác lại biến mất.”

“Chẳng hạn như?”

“Bàn chải, điện thoại di động của cô ấy.” Tôi liếc qua Jacob, cậu ta đang nhướn lông mày lên như trông đợi gì đó. “Và một số áo quần trong chiếc balô,” tôi kết lời, và cậu ta mỉm cười gật đầu.

“Ông đã làm gì?”

“Tôi đi với anh Maguire đến ngôi nhà và lên danh sách những vật dụng đã biến mất. Tôi cũng tịch thu một tờ giấy nằm trong hộp thư, trong đó yêu cầu người đưa thư giữ thư lại, rồi tôi gửi nó đến phòng xét nghiệm để tìm dấu vân tay. Sau đó, tôi bảo anh Maguire là chúng tôi phải chờ xem cô Ogilvy có trở về không.”

“Tại sao ông lại gửi tờ giấy đó đến phòng xét nghiệm?” Helen hỏi.

“Bởi tôi thấy việc gửi lời nhắn cho người đưa thư có vẻ là chuyện khá lạ lùng.”

“Ông có kết quả từ phòng xét nghiệm không?”

“Có rồi. Chúng chẳng dẫn đến kết luận nào cả, chẳng tìm thấy dấu vân tay nào trên giấy. Và chuyện đó khiến tôi tin rằng đây có thể là một lời nhắn được viết bởi một người đủ thông minh để mang găng tay khi làm việc này. Một chiêu đánh lạc hướng, để khiến chúng ta nghi rằng Jess đã tự ý muốn bỏ đi xa.”

“Tiếp theo thế nào?”

“Một ngày sau, tôi nhận được cuộc gọi của anh Maguire, anh ta nói rằng giá đĩa CD trong nhà đã bị đổ, rồi được xếp lại theo thứ tự ABC. Có vẻ đấy không phải là dấu hiệu rõ ràng của việc tạo chứng cứ giả, bởi xét cho cùng, cũng có thể chính Jess đã sắp xếp như thế, và hơn nữa, theo kinh nghiệm của tôi, bọn tội phạm không có khuynh hướng ngăn nắp đến thế đâu. Nhưng chúng tôi cũng đã chính thức mở cuộc điều tra việc cô Ogilvy mất tích. Một đội điều tra hiện trường đã đến nhà cô ấy để thu thập chứng cứ. Từ chiếc ví của cô ấy nằm trong bếp, tôi tìm ra lịch hẹn của cô, và bắt đầu lần theo những cuộc hẹn cô đã gặp trước khi mất tích, và cả những cuộc hẹn sau thời điểm đó nữa.”

“Ông đã cố gắng liên lạc với Jess Ogilvy trong thời gian điều tra phải không?”

“Vô số lần đấy. Chúng tôi đã gọi vào điện thoại di động của cô ấy, nhưng nó cứ đi thẳng vào hộp thư thoại, cho đến khi hộp thư đầy. Chúng tôi đã hợp tác với FBI để cố xác định vị trí của chiếc điện thoại.”

“Bằng cách nào?”

“Dùng định vị GPS có sẵn trong thiết bị. FBI có một phần mềm có thể xác định vị trí thiết bị đang ở địa điểm nào trên khắp thế giới, nhưng trong trường hợp này, họ không có kết quả chính xác nào cả. Phần mềm đó chỉ dò ra được khi điện thoại mở nguồn, và có vẻ như điện thoại của Jess Ogilvy đã bị tắt nguồn. Chúng tôi cũng chụp lại những tin nhắn gởi đến nhà cô ấy. Một tin của anh Maguire. Một tin từ một người bán hàng, một tin từ mẹ của bị cáo, và ba cuộc gọi nhỡ từ chính số điện thoại di động của Jess Ogilvy. Dựa trên thời gian ghi lại trong máy trả lời tự động, có vẻ như cô Ogilvy vẫn còn sống đâu đó, hoặc là kẻ đang giữ chiếc điện thoại đó muốn chúng tôi tin như vậy.”

“Thám tử, ông gặp bị cáo lần đầu tiên là lúc nào?”

“Vào ngày 15-01.”

“Trước đó, ông đã từng thấy cậu ta chưa?”

“Có… ở một hiện trường vụ án một tuần trước thời điểm đó. Cậu ta xen ngang cuộc điều tra.”

“Ông gặp cậu Hunt vào ngày 15-01 ở đâu?”

“Tại nhà cậu ta.”

“Còn ai ở đó nữa không?”

“Mẹ cậu ta.”

“Lúc đó ông có bắt giữ bị cáo không?”

“Không, lúc đó cậu ta không phải là nghi phạm. Tôi hỏi cậu ta vài câu về buổi hẹn với Jess. Cậu ta bảo là đã đến nhà cô ấy theo cuộc hẹn lúc 2:30 chiều, nhưng không gặp được cô ấy. Cậu ta bảo là mình đã đi bộ về nhà. Cậu ta cũng cho biết là Mark Maguire không có mặt lúc cậu ta đến nhà của cô Ogilvy. Khi tôi hỏi cậu ta có thấy Jess cãi nhau với bạn trai không, cậu ta nói, “Tạm biệt, bé yêu.”

“Ông có nhận ra câu này không?”

“Tôi tin câu này là của cựu thống đốc bang California,” tôi nói. “Trước khi ông ấy tham gia chính trường.”

“Lúc đó, ông có hỏi bị cáo thêm bất kỳ điều gì nữa không?”

“Không, tôi bị… đuổi. Lúc đó là 4:30, và cứ đến 4:30 là cậu ta xem một chương trình truyền hình.”

“Ông có gặp lại bị cáo nữa không?”

“Có. Tôi đã nhận một cuộc gọi từ Emma Hunt, mẹ của cậu ta, nói rằng Jacob có chuyện khác cần nói với tôi.”

“Jacob đã nói gì trong cuộc nói chuyện thứ hai này?”

“Cậu ta trình cho tôi chiếc ba lô thất lạc cùng vài thứ áo quần của Jess Ogilvy. Cậu ta thừa nhận là đã đến nhà cô ấy, và thấy những dấu hiệu vật lộn, nhưng cậu ta đã dọn dẹp hết rồi.”

“Dọn dẹp?”

“Đúng. Cậu ta dựng lại ghế đẩu, nhặt chồng thư nằm dưới sàn lên, rồi xếp lại giá đĩa CD theo thứ ABC. Cậu ta lấy ba lô, bởi nghĩ là cô ấy có thể cần đến nó. Rồi cậu ta cho tôi xem ba lô và những vật dụng bên trong.”

“Lúc đó, ông có bắt giữ bị cáo không?”

“Không.”

“Ông có tịch thu balô và áo quần không?”

“Có. Chúng tôi đã xét nghiệm, và kết quả âm tính. Nghĩa là không có dấu vân tay, không có máu, không có ADN.”

“Rồi chuyện gì xảy ra tiếp theo?” Helen hỏi.

“Tôi gặp đội điều tra hiện trường tại nhà Jess Ogilvy. Họ đã tìm thấy bằng chứng là vết máu trong phòng tắm, một khung kính cửa sổ trong nhà bếp bị cắt, và khung kính bị nạy. Họ cũng tìm thấy một dấu giày bên ngoài nhà, có vẻ khớp với dấu đế giày của Mark Maguire.”

“Sau đó xảy ra chuyện gì?”

Tôi quay về phía bồi thẩm đoàn. “Sáng sớm ngày thứ hai, 18-01, không lâu sau 3:00 sáng, Tổng đài Townsend nhận được một cuộc gọi 911. Mọi cuộc gọi 911 đều dùng công nghệ dò tìm định vị GPS để có thể tiếp cận với người thực hiện cuộc gọi. Cuộc gọi này được thực hiện từ một ống cống cách nơi ở của Jess Ogilvy khoảng 200 mét. Chúng tôi đã tìm đến đó. Thi thể của nạn nhân, và cả chiếc điện thoại của cô ấy, được tìm thấy tại đó. Cô ấy được bọc trong một tấm mền. Có một đoạn video quay hiện trường chiếu trên bản tin giữa ngày của WCAX…” tôi ngập ngừng, chờ Helen lấy đoạn băng và xác nhận nó là chứng cứ, rồi kéo tivi đến gần bồi thẩm đoàn để họ có thể xem rõ.

Cả khán phòng im lặng khi khuôn mặt phóng viên xuất hiện trên màn hình, mắt cô ấy rươm rướm ướt trong tuyết lạnh, còn các nhân viên điều tra viên hiện trường đang di chuyển sau lưng cô. Phóng viên nhấc chân, và vừa lúc đó Helen cho đứng hình.

“Thám tử, ông có nhận ra tấm mền này không?” cô hỏi.

Nó là một tấm mền đa sắc, rõ ràng là làm bằng tay.

“Đúng. Nó được quấn quanh thi thể của Jess Ogilvy.”

“Đây là tấm mền đó phải không?”

Cô đưa cao tấm mền với những vết máu loang lổ.

“Chính là nó,” tôi nói.

“Sau đó xảy ra chuyện gì?”

“Khi tìm được thi thể, tôi đã cho vài cảnh sát đến bắt giữ Mark Maguire vì tội danh sát hại Jess Ogilvy. Tôi đang thẩm vấn anh ta thì nhận được một cuộc gọi.”

“Người gọi có xưng danh tính không?”

“Có. Là Emma, mẹ của Jacob Hunt.”

“Giọng điệu bà ấy thế nào?” Helen hỏi.

“Bà ấy hoảng loạn. Rối trí cực độ.”

“Bà ấy đã nói gì với ông?”

Vừa lúc đó, viên luật sư trông như học sinh trung học đứng lên phản đối. “Thưa thẩm phán, đấy là chứng cứ dựa vào tin đồn.”

“Công tố viên, giải trình đi,” thẩm phán nói.

Helen nhỏ nhẹ. “Thưa thẩm phán, tôi muốn đưa ra một bằng chứng là mẹ của bị cáo đã gọi bởi bà ấy vừa xem đoạn tin tức có tấm mền đó trên màn hình, và có thể liên kết chuyện này với con trai mình. Do đó, đây là một lời nói đáng để nghe.”

“Phản đối vô hiệu,” thấm phán nói, và Helen lại tiếp tục hỏi tôi.

“Mẹ của bị cáo đã nói gì với ông?” cô hỏi lại.

Tôi không muốn phải nhìn thấy Emma. Tôi có thể cảm nhân cái nhìn của cô ấy, những lời kết tội của cô ấy dành cho tôi. “Bà ấy bảo tôi tấm mền đó là của con trai mình.”

“Dựa trên cuộc nói chuyện đó, ông đã làm gì?”

“Tôi đã bảo bà ấy đưa Jacob đến đồn, để chúng tôi có thể nói chuyện rõ hơn.”

“Ông đã cho bắt giữ Jacob Hunt vì tội sát hại Jess Ogilvy?”

“Đúng.”

“Rồi chuyện gì xảy ra tếp theo?”

“Tôi hủy bỏ mọi cáo buộc chống lại anh Maguire. Tôi cũng ra lệnh khám xét nhà của bị cáo.”

“Ông đã tìm thấy gì ở đó?”

“Chúng tôi tìm thấy một đài dò tần số cảnh sát, một tủ xông hơi tự chế để lấy dấu vân tay, và hàng trăm quyển sổ.”

“Trong những quyển sổ đó có gì?”

“Jacob dùng chúng để ghi lại thông tin về các tập phim CrimeBusters mà cậu ta xem. Cậu ta ghi lại ngày tập đó phát sóng, bằng chứng, rồi ghi lại cậu ta có giải được vụ án đó trước khi thám tử trong phim giải được hay không. Tôi từng thấy cậu ta viết chúng, vào lần đầu tiên tôi đến nhà để nói chuyên với cậu ta.”

“Ông đã tìm được bao nhiêu quyển sổ như thế?”

“Một trăm mười sáu quyển.”

Công tố viên đưa một quyển ra làm chứng cứ. “Ông có nhận ra đây là gì không, thám tử Matson?”

“Đây là một trong những quyển sổ đó. Quyển ghi lại những tập mới nhất.”

“Ông có thể mở trang 14 của quyển sổ này, và cho chúng tôi biết ông thấy gì hay không?”

Tôi đọc to đoạn đó.

Ở nhà cô ấy. 12/01/2010

Tình huống: Bạn trai báo cáo cô gái bị mất tích

Chứng cứ:

Áo quần xếp ngay ngắn trên giường.

Không tìm thấy bàn chải, son dưỡng môi.

Ví và áo khoác của nạn nhân vẫn còn trong nhà.

Không tìm thấy điện thoại di động.

Luminol trong phòng tắm - phát hiện vết máu

Balô biến mất & lời nhắn trong hộp thư - đánh lạc hướng bằng dấu hiệu mất tích.

Cửa sổ bị cắt - dấu chân bên ngoài nhà khớp với dấu chân bạn trai của cô ấy.

Qua cuộc gọi từ điện thoại di động, 911 dò ra địa điểm thi thể trong ống cống.

“Có điều gì đáng chú ý trong đoạn này hay không?”

“Tôi không biết đây có phải cảnh trong một tập phim CrimeBusters không, nhưng đây chính xác là hiện trường vụ án mà chúng tôi tìm thấy ở nhà Jess Ogilvy, chính xác cách chúng tôi tìm thấy thi thể Jess Ogilvy. Và tất cả những thông tin này là những thông tin mà không ai có được,” tôi nói. “Ngoại trừ cảnh sát…và kẻ giết người.”