← Quay lại trang sách

- 2 - Jacob

Theo vẫn còn mặc quần áo khi tôi đến gõ cửa phòng nó. “Chuyện gì thế?” nó vừa nói vừa giữ chiếc khăn tắm đang quấn trên người. Tôi nhắm mắt lại cho đến khi nó bảo tôi được phép nhìn, rồi tôi bước vào phòng nó.

“Anh cần em giúp thắt cà vạt,” tôi nói.

Tôi rất tự hào về chuyện hôm nay tôi có thể mặc đồ mà không gặp rắc rối gì. Tôi còn hơi sợ những chiếc nút trên áo sơmi, chúng như than nóng bỏ trên ngực tôi vậy, nhưng tôi đã mặc lót bên trong một chiếc áo thun, nên giờ tôi thấy không đau đớn lắm.

Theo mặc quần jean và áo thun. Tôi ước giá mình có thể mặc như thế đến tòa. Nó bẻ cổ áo của tôi và bắt đầu quấn cà vạt vòng vòng để cho ra một chiếc cà vạt, chứ không cố thắt nút như cách tôi đã thử hai lần và đã thất bại. Chiếc cà vạt này hệt như một chiếc khăn quàng len dài, tôi thích nó hơn cái cà vạt sọc mà Oliver bắt tôi mang hôm qua nhiều.

“Xong rồi đấy,” Theo nói. Rồi nó nhún vai. “Anh nghĩ sao về bố?”

“Anh chẳng nghĩ gì về bố,” tôi nói.

“Ý em là về chuyện bố ở đây ấy.”

“À,” tôi nói. “Có lẽ là tốt.”

Trong thực tế tôi chẳng nghĩ chuyện này tốt hoặc xấu gì hết. Bởi xét cho cùng, nó chẳng thay đổi được gì nhiều. Nhưng có vẻ như những người bình thường sẽ phản ứng tích cực hơn khi gặp một người thân của mình, và bố đã đi 3.000 dặm trên máy bay để đến đây, nên tôi phải có chút gì đó tưởng thưởng cho bố.

“Em nghĩ mẹ sẽ sôi máu đấy.”

Tôi chẳng biết thế nghĩa là gì, nhưng tôi vẫn gật đầu và cười với nó. Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết mình có thể phản ứng thế nào khi hoàn toàn chẳng hiểu người ta đang nói gì đấy.

“Anh có nhớ bố không?” Theo hỏi.

“Bố đã gọi vào dịp sinh nhật của anh, và chỉ mới ba tháng rưỡi…”

“Không,” Theo cắt lời tôi. “Ý em là anh có nhớ hồi đó không? Hồi bố còn sống với nhà mình ấy?”

Thật sự là tôi có nhớ. Tôi nhớ mình nằm giữa bố và mẹ, và tôi để tay lên má bố lúc ngủ. Chỗ đó hơi rát vì có râu lún phún, và mấy thứ đó từng khiến tôi thích thú, hơn nữa tôi thích tiếng bố gãi râu. Tôi nhớ chiếc vali của bố. Bố có những chiếc đĩa đủ màu trong đó, và tôi thích xếp chúng theo bảy sắc cầu vồng. Còn có mấy cái kẹp giấy trong ngăn nhỏ mà tôi thường xếp thành hàng dài trên sàn văn phòng bố lúc bố làm việc. Thỉnh thoảng khi bố đang lập trình mà bị bế tắc hay phấn khích, bố thường hét lên và thế là tôi cũng hét lên, rồi bố sẽ gọi mẹ bồng tôi đi bởi bố có việc phải làm cho xong.

“Bố từng đưa anh đi hái táo,” tôi nói. “Bố để anh ngồi trên vai và chỉ cho anh cách thợ hái táo lấy táo ra khỏi giỏ sao cho chúng thật nguyên vẹn.”

Tôi từng làm một danh sách thông tin về táo, bởi những gì tôi nhớ về bố mình là ít nhất ông có hứng thú với cây ăn quả, đủ hứng thú để từng một lần đưa tôi đến vườn cây. Tôi biết:

1. Các nước trồng táo hàng đầu thế giới là Trung Quốc, Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan, và Ý.

2. Cần 36 trái táo để làm một gallon rượu táo.

3. Red Delicious là chủng loại táo phổ biến nhất ở Hoa Kỳ.

4. Cần năng lượng của 50 chiếc lá để cho ra một trái táo.

5. Trái táo lớn nhất thế giới nặng đến một ký rưỡi.

6. Táo nổi trên nước, bởi phần ruột xốp của nó chứa không khí.

7. Cây táo có bà con với cây hoa hồng.

8. Các nhà khảo cổ học đã tìm được bằng chứng cho thấy người ta đã ăn táo từ những năm 6.500 trước Công nguyên.

“Hay thật,” Theo nói. “Em thì hoàn toàn chẳng nhớ gì về bố cả.”

Tôi biết vì sao lại thế, bởi lúc bố đi, Theo mới được vài tháng tuổi. Tôi không nhớ ngày hôm đó, nhưng tôi nhớ nhiều chuyện dẫn đến ngày đó. Mẹ và bố thường cãi nhau trước mặt tôi. Tôi có đó mà cũng như không có, bởi thời đó tôi hoàn toàn mải mê vào lớp tĩnh điện trên màn hình tivi hay mấy cái nút trên máy nướng bánh. Bố mẹ tôi cho rằng tôi không để ý, nhưng không phải thế. Thời đó, tôi có thể nghe, thấy, và ngửi mọi thứ cùng một lúc, vì thế tôi phải tập trung rất dữ để chỉ chú ý đến một thứ mà thôi. Tôi luôn hình dung nó như một bộ phim, một chiếc máy quay có thể ghi lại cả thế giới một lần với đủ mọi âm thanh, hình ảnh. Thế thật ấn tượng, nhưng nó chẳng ích lợi gì lắm nếu bạn muốn nghe cho rõ một cuộc nói chuyện hai người, hay nhìn ra một trái bóng lao về phía bạn. Nhưng tôi đâu thể thay đổi bộ não trời phú, nên thay vào đó tôi học cách thu hẹp thế giới với những tấm chắn trong đầu, cho đến khi tôi có thể chỉ chú tâm vào thứ tôi muốn chú tâm. Đấy là tự kỷ. Với những người chưa từng cảm nhận như thế, đấy là tự kỷ.

Dù gì, cũng vì thế mà dù bố mẹ tôi cho là tôi đang chăm chú vào chuyện khác, tôi vẫn có thể nhớ được chuyện cãi vã hôm đó.

Em có nhớ gì đến anh không, Emma? Anh cũng sống ở đây đấy…

Trời ơi, Henry. Anh ghen vì thời gian em dành cho con trai anh sao?

Anh không quan tâm ta làm cách nào để trả được khoản đó. Anh sẽ không trả tiền điều trị cho Jacob chỉ bởi…

Bởi cái gì? Nói đi… Bởi anh không nghĩ em kiếm được tiền.

Anh không nói, tự em nói đấy thôi.

Anh muốn khi ra khỏi cái công ty chết tiệt và về cái nhà chết tiệt của mình, anh không phải thấy mười người lạ trong phòng khách nhà anh. Thế là quá đáng hay sao?

Những người lạ đó là những người sẽ đưa Jacob về lại cho chúng ta…

Tỉnh lại đi, Emma. Nó là thế rồi. Không có phép lạ nào nằm sẵn trong người nó chờ em mở ra đâu.

Cả tuần nay, tối nào anh cũng đi làm về muộn.

Về nhà thì anh có được cái gì cơ chứ?

Ý em là sao, em có thai? Không nói gì nữa. Ta đã có quá đủ chuyện để lo…

Em không tự mình có thai được, anh biết thế mà.

Anh biết. Em là người uống thuốc mà.

Anh nghĩ em lừa anh sao? Chúa ơi, Henry, em mừng là anh đánh giá em cao thế đấy. Cứ đi đi. Đi khỏi đây đi.

Và rồi một ngày, bố đi thật.

Bỗng nhiên có tiếng gõ cửa phòng Theo, và bố ló đầu vào. “Các con,” bố nói. “Các con sao rồi?”

Anh em chúng tôi cứ trơ ra, chẳng nói gì.

“Jacob,” bố gọi tôi. “Nói chuyện được không?”

Tôi và bố ngồi trong phòng tôi, tôi thì trên giường, bố thì trên ghế. “Con có… thoải mái nói chuyện bố ở đây không?”

Tôi nhìn quanh. Bố chẳng xáo trộn thứ gì trên bàn tôi, nên tôi gật đầu.

Tôi nghĩ làm thế khiến bố thấy khá hơn, bởi tôi thấy hai vai bố đang thả lỏng dần. “Bố nợ con một lời xin lỗi,” bố nói. “Bố không biết làm sao để nói những lời này.”

“Con cũng thế,” tôi bảo.

Bố khẽ cười và lắc đầu. Theo có vẻ giống bố quá. Tôi nghe mẹ tôi nói thế cả đời rồi, nhưng giờ tôi có thể thấy nơi bố có rất nhiều nét giống tôi. Như cái cách bố rụt đầu lại trước khi nói gì đó. Cách bố gõ mấy ngón tay trên bắp đùi.

“Bố muốn xin lỗi con, Jacob,” bố nói. “Có những người như mẹ con, những người không bỏ cuộc. Bố không phải là người như thế. Bố không biện hộ, chỉ là nói ra một sự thật mà thôi. Bố biết đủ rõ về mình để hiểu rằng chuyện này bố không kham nổi.”

“Chuyện này của bố,” tôi nói, “là con phải không?”

Bố ngập ngừng, rồi gật đầu. “Bố không biết rõ về Asperger như mẹ con,” bố nói. “Nhưng bố nghĩ ai cũng có một điều gì đó trong người ngăn không cho mình liên kết với người khác, kể cả khi mình muốn thế.”

Tôi thích cách nghĩ rằng Asperger là một gia vị thêm vào cho con người ta, và dù tôi có khả năng tập trung hơn người khác, nhưng mọi người khác cũng đều có những nét gia vị của mình.

Tôi cố nhìn thẳng vào mắt bố. “Bố có biết táo có thể bị ố màu không?” Tôi hỏi.

“Không,” bố nói với giọng nhẹ nhàng hơn. “Bố không biết.”

Ngoài danh sách thông tin về táo, tôi còn có một danh sách nữa về bố mình, về những câu tôi sẽ hỏi nếu có dịp.

1. Nếu không có con, bố có ở lại không?

2. Bố có bao giờ thấy có lỗi vì đã bỏ đi không?

3. Bố có nghĩ một ngày nào đó bố và con có thể là bạn không?

4. Nếu con hứa sẽ cố gắng hơn, bố có nghĩ lại chuyện trở về nhà mình không?

Một chuyện đáng chú ý là khi ngồi trong phòng tôi, chúng tôi đã thảo luận về táo, về lời chứng của viên giám định y khoa ngày hôm qua, và bài báo trên tờ Wired bàn luận xem Asperger có phát triển ở Thung lũng Silicon do sự tăng mạnh chủng gene chuyên toán-khoa học ở đây hay không. Nhưng tôi lại không hỏi bố câu nào trong danh sách trên của mình, và nó vẫn chỉ là những chữ trong tờ giấy tôi để ở đáy hộc bàn.

Chúng tôi cùng đến tòa trên chiếc xe bố tôi thuê. Nó có màu bạc và mùi như gỗ thông. Như thường lệ, tôi ngồi ở băng sau, ngay sau ghế tài xế của bố tôi. Mẹ ngồi kế bên bố, còn Theo thì cạnh tôi. Trên đường đi, tôi nhìn vào những khoảng trống giữa các sợi dây điện mắc trên những hàng cột, chúng thu hẹp hai đầu và giãn rộng ở giữa, như những chiếc canô khổng lồ vậy.

Còn năm phút nữa là đến tòa án, thì chuông điện thoại mẹ tôi reo lên. Mẹ suýt làm rơi nó khi lôi ra khỏi túi. “Tôi ổn,” mẹ nói, nhưng mặt mẹ đang đỏ lên. “Ta sẽ gặp nhau ở bãi dỗ xe.”

Tôi cho là đáng ra tôi phải lo lắng, nhưng tôi lại thấy thực sự phấn khích. Hôm nay là ngày Oliver sẽ nói với mọi người sự thật chuyện tôi đã làm.

“Nào, Jacob,” mẹ bảo. “Con nhớ luật chứ?”

“Để Oliver nói. Đưa cho anh một mảnh giấy nếu con thấy cần phải nghỉ. Con không phải thằng đần, mẹ à.”

“Tùy cách nhìn nhận của mỗi người thôi,” Theo nói.

Mẹ quay người trên ghế. Con ngươi mắt mẹ lớn và sẫm màu, mạch đang đập mạnh nơi hốc họng. “Hôm nay sẽ khó khăn hơn cho con đấy,” mẹ nói khẽ. “Con sẽ phải nghe những chuyện người ta nói về con, những chuyện mà con thấy vô lý. Những chuyện có lẽ con sẽ nghĩ là không có thật. Nhưng nhớ nhé, Oliver biết mình đang làm gì.”

“Jacob có ra làm chứng không?” bố hỏi.

Mẹ quay qua bố. “Anh nghĩ gì thế hả?”

“Chúa ơi, anh chỉ hỏi thôi mà.”

“Anh không thể đến giữa vở kịch và mong em sẽ kể hết cho anh những phần anh bỏ lỡ,” mẹ đáp ngay, và rồi một sự thinh lặng bao trùm chiếc xe. Tôi bắt đầu lẩm nhẩm dãy Fibonacci để lấy tinh thần, và hẳn Theo cũng có cảm giác giống tôi, bởi nó hỏi, “Vậy… ta đến mức đó chưa?” rồi nó cười như điên, như thể vừa nói một câu đùa vui lắm vậy.

Khi chúng tôi đến bãi xe, Oliver đã đứng đó tựa lưng vào chiếc xe của anh ta rồi. Anh bảo chiếc xe cũ này có vẻ hợp với thợ đóng móng hơn là với một luật sư, nhưng nó vẫn chở anh đi nơi này nơi kia được. Chúng tôi đỗ xe ở sau lưng tòa án, tránh xa các máy quay và xe truyền hình. Khi chúng tôi đi ngang, anh có ngước mắt lên, nhưng đây không phải xe mẹ tôi, nên anh không nhận ra. Cho đến khi chúng tôi đỗ lại và ra khỏi chiếc xe thuê thì Oliver mới thấy mẹ tôi và tiến tới với một nụ cười rạng rỡ.

Rồi anh nhìn thấy bố tôi.

“Oliver,” mẹ tôi bảo, “đây là chồng cũ của tôi, Henry.”

“Cô đùa đấy à?” Oliver nhìn mẹ tôi.

Bố tôi đưa tay ra với Oliver, “Hân hạnh được gặp anh.”

“À. Phải rồi. Hân hạnh.” Rồi anh quay qua tôi. “Ôi, lạy Chúa lòng lành… Emma à, tôi không thể để cậu ấy vào tòa với bộ dạng này.”

Tôi nhìn xuống xem lại mình. Tôi đang mặc quần nhưng nâu, áo nâu, vest nhẹ cũng màu nâu và cà vạt nâu Theo đã thắt cho tôi.

“Hôm nay là thứ Năm, và nó mặc áo vest lẫn cà vạt rồi,” mẹ tôi cương quyết nói. “Anh phải biết là sáng nay tôi có rất nhiều chuyện phải lo mà.”

Oliver quay qua bố tôi. “Ông thấy cậu ấy giống cái gì nào?”

“Một tài xế của UPS?” bố tôi nói.

“Tôi thì đang nghĩ đến lính Đức Quốc xã.” Oliver lắc đầu. “Ta không có thời gian để cậu về nhà thay đồ, và cậu lại quá bự con để mặc vừa bộ…” đột nhiên Oliver khựng lại và nhìn bố tôi từ đầu xuống chân. “Vào phòng thay đồ, đổi áo với bố cậu đi.”

“Nhưng nó màu trắng mà,” tôi nói.

“Chính xác là vì thế đấy. Ta không muốn tạo hình ảnh một kẻ giết người hàng loạt hiện đại đâu, Jake à.”

Bố liếc qua nhìn mẹ. “Thấy chưa? Em không mừng khi có anh sao?”

Hôm đầu tiên tôi gặp Jess để học kèm kỹ năng xã hội, tình cờ cũng là hôm thấy lo cho mạng sống của mình.

Năm đó tôi học Ngữ văn với cô Wicklow. Môn đó chẳng có gì đặc biệt thú vị, và cô Wicklow lại không may có một một khuôn mặt hệt như củ khoai tây dài và hẹp, lông măng nhú ở cằm, và nước da như vừa xịt sơn màu cam lên vậy. Nhưng cô luôn cho tôi đọc lời thoại mỗi khi chúng tôi tập kịch, ngay cả khi thỉnh thoảng tôi không nhớ mình đang đọc đến đâu, và những khi tôi quên mang sách trong buổi kiểm tra cho dùng sách, thì cô cho tôi làm kiểm tra lại vào ngày hôm sau. Có lần cô nghỉ dạy vì bị cúm, một đứa trong lớp tên là Sawyer Trigg, từng bị đình chỉ vì đem thuốc NyQuil đến bán trong căng tin trường, nó làm ngơ cô giáo dạy thế và lấy một miếng mạng nhện, kẹp kẹo cao su dán vào cằm. Nó nhét giấy dưới áo và bắt đầu vênh váo đi dọc lớp. “Tao là ông Witchlow,” nó nói và ai cũng bật cười.

Tôi cũng cười, nhưng chỉ để khỏi lạc đàn thôi. Bởi bạn phải tôn trọng giáo viên, dù họ không có đó. Vậy nên khi cô Witchlow đi dạy trở lại, tôi cho cô biết chuyện Sawyer đã làm, và cô cho nó đi gặp thầy hiệu trưởng. Hôm sau, nó đẩy tôi sấp mặt vào tủ đồ và nói, “Tao có thể giết mày đấy, Hunt.”

Tôi hoảng loạn suốt cả ngày hôm đó, bởi nó có thể giết tôi, và tôi chẳng chút nghi ngờ chuyện đó. Và khi Jess đến trường gặp mặt tôi lần đầu tiên, tôi đã giấu trong bọc một con dao cắt bơ trộm được từ căng tin, để phòng khi Sawyer Trigg bất thần lao vào tôi trên hành lang.

Jess bảo tôi là những gì tôi nói với cô là chuyện riêng tư, và cô sẽ không kể với mẹ tôi bất kỳ chuyện gì tôi muốn giữ bí mật chỉ hai chúng tôi biết. Tôi thích thế, nghe như tôi có một người bạn thân vậy, nhưng đầu óc tôi đang rối bù vì Sawyer, nên tôi chẳng tỏ thái độ gì về chuyện này. “Jacob?” Jess hỏi, khi cô thấy tôi cứ ngoái cổ nhìn lui đến lần thứ tám trong vòng vài phút. “Mọi chuyện ổn cả chứ?”

Và thế là tôi kể cho cô mọi chuyện về cô Wicklow và Sawyer Trigg.

Cô lắc đầu. “Nó không giết cậu đâu.”

“Nhưng nó đã nói…”

“Đấy là cách nó cho cậu biết là nó nổi điên với cậu vì đã mách lẻo nó.”

“Không được đem giáo viên ra đùa…”

“Cậu cũng không được mách lẻo bạn bè mình nữa,” Jess nói. “Nhất là khi cậu muốn họ thích cậu. Ý tôi là, cô Wicklow phải tử tế với cậu, bởi đó là một phần công việc. Nhưng cậu phải làm sao để bạn bè trong lớp tin tưởng mình. Và cậu vừa làm hỏng chuyện đó rồi.” Jess nghiêng người tới. “Có đủ loại luật đấy, Jacob. Một số thì rõ ràng, chẳng hạn như không được đem giáo viên ra đùa. Nhưng có những luật hệt như bí mật vậy. Chúng là những luật cậu phải biết, ngay cả khi chẳng ai nói ra bao giờ.”

Đó đúng là những thứ mà dường như chẳng bao giờ tôi hiểu được, những luật bất thành văn mà những người khác dùng như thể họ có một thiết bị radar xã hội mà tôi không có vậy.

“Cậu có cười khi Sawyer pha trò về cô Wicklow không?”

“Có.”

“Nó nghĩ cậu về phe nó, nghĩ cậu thích trò của nó. Nên cứ thử tưởng tượng nó sẽ cảm thấy gì khi cậu đi mách lẻo nó.”

Tôi tròn mắt nhìn Jess. Tôi không phải Sawyer, và tôi đã tôn trọng luật triệt để, còn nó thì cố ý vi phạm luật đó. “Tôi không thể,” tôi nói.

Vài phút sau, mẹ đến đón tôi. “Chào,” mẹ nói và cười với Jess. “Sao rồi?”

Jess nhìn tôi đến khi thấy tôi nhìn cô. Rồi cô mới quay qua mẹ tôi, “Hôm nay Jacob khiến một cậu khác gặp rắc rối. Và Jacob còn trộm một con dao từ căng tin trường nữa.”

Tôi thấy tim mình như vụn vỡ, miệng tôi khô rang. Tôi đã tưởng cô này sẽ là bạn của tôi, sẽ giữ bí mật cho tôi. Và việc đầu tiên cô làm là quay lại kể cho mẹ tôi nghe hết mọi chuyện xảy ra trong ngày.

Tôi giận điên người, không bao giờ muốn gặp lại cô ta nữa. Và tôi thấy bụng mình nôn nao, như thể vừa xuống khỏi tàu lượn siêu tốc vậy, bởi tôi biết mẹ tôi sẽ tiếp tục nói về chuyện này trên đường chở tôi về nhà.

Jess chạm vào tay tôi, để tôi nghe cô nói. “Đó,” cô nói, “là cảm giác của Sawyer. Và tôi sẽ không bao giờ làm thế với cậu lần nữa. Còn cậu thì sao?”

Hôm sau tôi đến trường, đứng chờ cạnh tủ đồ của Sawyer.

“Mày làm gì ở đây hả, thằng lếu láo?” nó hỏi.

“Tớ xin lỗi,” tôi nói, và tôi thật sự muốn xin lỗi.

Có lẽ là do vẻ mặt của tôi, hay giọng nói, hay chỉ cần việc tôi tìm đến nó cũng là đủ rồi, nên nó đứng đó sững ra một giây, rồi nhún vai. “Sao cũng được,” Sawyer nói.

Tôi quyết định xem đó là cách nó nói cảm ơn. “Cậu còn nghĩ đến chuyện giết tớ nữa không?”

Nó lắc đầu và cười lớn. “Tớ không nghĩ thế nữa.”

Và tôi cho bạn biết, Jess Ogilvy đúng là giáo viên tuyệt nhất tôi từng có. Và hơn bất kỳ ai, cô ấy sẽ hiểu vì sao tôi phải làm những chuyện tôi đã làm.