- 4, 5 - Theo
Hôm qua, riêng tôi ngồi ở cuối phòng xử án, giữa một bà đang đan mũ len cho trẻ sơ sinh, và một ông mặc áo khoác nỉ cứ nhắn tin suốt. Chẳng ai biết tôi là ai, và tôi thích thế. Sau giờ nghỉ giác quan của Jacob, khi tôi đến căn phòng rũ màn và viên chấp hành tòa cho tôi đi vào, thì thân thế bí mật của tôi không còn là bí mật nữa rồi. Tôi để ý thấy bà đan len đã dọn qua góc phòng bên kia, như thể tôi mang một thứ bệnh truyền nhiễm thay vì một cái họ giống như của bị cáo vậy. Còn ông mặc áo nỉ thì không nhắn tin nữa. Ông cứ hỏi tôi liên tục. Trước đây Jacob có biểu hiện bạo lực không? Jacob có si mê Jess Ogilvy không? Cô ấy có phụ tình anh ta không? Chẳng mất bao lâu để tôi nhận ra ông ta là một phóng viên, và thế là tôi đành ra đứng cạnh một viên chấp hành tòa.
Hôm nay, tôi ngồi cạnh bố mình, một người có thể nói là tôi hoàn toàn không quen biết.
Khi Oliver bắt đầu nói, bố cúi xuống hỏi tôi. “Con biết gì về gã này không?”
“Anh ta thích đi dạo dọc bãi biển, và thuộc cung Bọ cạp,” tôi nói.
Còn đây là chuyện tôi thật sự biết về anh ta. Hôm nay, Oliver đã nắm lấy cánh tay mẹ tôi. Không phải theo kiểu bà-sắp-ngã-kìa, mà là kiểu trìu mến. Chuyện đó là cái quái gì vậy? Anh ta phải cứu anh trai tôi, chứ không phải tán tỉnh mẹ tôi.
Tôi biết tôi nên thấy an lòng hơn khi có bố tôi ở đây. Nhưng thật sự thì không. Tôi ngồi đây tự hỏi tại sao chúng tôi lại đang ngồi trong một phiên tòa xử tội giết người, thay vì ngồi ở hàng ghế đầu sân vận động Fenway để xem đội Sox thi đấu. Tôi không biết tôi học đâu ra cách thắt cà vạt như tôi vừa thắt cho Jacob sáng nay, bởi bố của tôi không phải là người dạy nó cho tôi. Tôi không hiểu vì sao cùng chia sẻ ADN với một người, không tự động khiến bạn cảm thấy mình và người đó có điểm chung.
Ngay khi Oliver nói xong, tôi quay qua bố. “Con không biết câu cá,” tôi nói. “Ý con là, con không biết cách móc mồi vào lưỡi, không biết cách dùng cần, hay bất kỳ thứ gì như thế.”
Bố cứ trân mắt nhìn tôi, mày hơi cau lại.
“Sẽ thật tuyệt nếu bố con mình từng đi câu,” tôi nói. “Bố biết đây. Câu ở cái hồ sau trường chẳng hạn.”
Tất nhiên, chuyện tôi đang nói thật vớ vẩn. Lúc bố bỏ chúng tôi mà đi, tôi chỉ mới sáu tháng. Lúc đó tôi còn chưa biết ngồi, làm sao nói đến câu cá.
Bố tôi rụt đầu lại. “Bố bị say sóng. Ngay cả khi mới bước ra cầu tàu. Lúc nào cũng thế.”
Sau đó, chúng tôi chẳng nói gì nữa.
Tôi từng đến gặp bác sĩ Moon một lần. Mẹ tôi nghĩ sẽ tốt cho tôi nếu tôi nói chuyện với một bác sĩ tâm lý về những cảm xúc của mình, bởi các bạn biết rồi đấy, sống chung nhà với một ông anh như thế đâu có dễ dàng gì. Tôi không thể nói là tôi nhớ gì nhiều về bà ấy, trừ việc bà có mùi như hương trầm, và bà bảo tôi có thể cởi giày ra, bởi bà suy nghĩ thông thoáng hơn mỗi khi không mang giày và bà nghĩ có lẽ tôi cũng thế.
Nhưng ngược lại, tôi vẫn còn nhớ như in những chuyện trao đổi ngày hôm đó. Bà bảo rằng đôi khi làm em thật khó, bởi tôi phải làm mọi thứ mà anh trai thường làm. Bà bảo tôi rằng chứng bệnh của Jacob có thể khiến anh thấy chán nản, và nổi điên, thậm chí còn khiến anh hành động ấu trĩ hơn nữa. Tôi thấy bà chẳng khác gì dự báo thời tiết cả. Bà có thể cho tôi biết chính xác những chuyện có thể diễn ra, nhưng hoàn toàn chẳng cho tôi thứ gì để đương đầu với cơn bão.
Hôm nay, đứng trên bục nhân chứng, trông bà hơi khác với lúc ở văn phòng. Ví dụ như, bà đang mặc một bộ vest công sở, và mái tóc dài rối bù của bà giờ được búi gọn gàng. À, bà còn mang giày nữa. “Lúc đầu, Jacob được chẩn đoán là rối loạn tự kỷ chung. Rồi chúng tôi chẩn đoán cậu ấy mắc chứng rối loạn phát triển toàn diện. Cho đến tận lúc Jacob học lớp sáu, sau khi thấy cậu ấy không thể lĩnh hội các ngụ ý xã hội, bị hạn chế về lời nói, và không thể tương tác với bạn cùng lứa dù có chỉ số IQ cao, chúng tôi mới xác định được cậu ấy mắc hội chứng Asperger. Với những đứa trẻ trạc tuổi Jacob, những chẩn đoán thay đổi như thế không hiếm. Thế không có nghĩa là cậu ấy không mắc hội chứng Asperger ngay từ đầu, mà chỉ có nghĩa là chúng ta không có những ngôn ngữ thích hợp để đặt tên cho tình trạng của cậu ấy.”
“Bà có thể cho những người không chuyên ở đây biết định nghĩa về hội chứng Asperger được không?” Oliver hỏi.
“Đấy là một sự rối loạn phát triển tác động đến cách vận hành thông tin trong não, và nó được xem là mức cao nhất trong thang tự kỷ. Những người mắc hội chứng Asperger không như những trẻ bị tự kỷ nặng không thể giao tiếp, họ thường rất thông minh và có tài, nhưng lại có những khiếm khuyết trong tương tác xã hội.”
“Vậy người mắc hội chứng Asperger có thể là người thông minh?”
“Một số người mắc hội chứng Asperger có IQ tầm thiên tài. Tuy nhiên, họ lại vô cùng lạc lõng và bất lực trong những cuộc chuyện trò đơn giản. Phải dạy cho người đó biết cách tương tác xã hội, như thể đó là một ngoại ngữ vậy, chẳng khác gì anh và tôi đi học tiếng Phạn.”
“Các luật sư đôi khi cũng khó kết bạn lắm,” Oliver nói, khiến bồi thẩm đoàn bật cười. “Thế có nghĩa là chúng tôi đều mắc hội chứng Asperger?”
“Không,” bác sĩ Moon trả lời. “Một người mắc hội chứng Asperger vô cùng muốn hòa nhập xã hội nhưng họ lại không thể hiểu những hành vi xã hội vốn đã là trực giác với tất cả chúng ta. Người đó không thể hiểu được các cử chỉ hay biểu cảm khuôn mặt để biết người đối diện đang cảm thấy thế nào. Người đó không thể hiểu được những ngụ ý không lời, chẳng hạn như cái ngáp ra dấu sự chán chường khi phải cố gắng tiếp chuyện. Người đó không thể hiểu được điều mà người khác đang nghĩ hay cảm nhận. Sự thấu cảm là một thứ gì đó phi tự nhiên đối với người đó. Người đó thật sự là trung tâm vũ trụ của mình và sẽ phản ứng dựa trên nguyên tắc đó. Ví dụ như, tôi có một bệnh nhân bắt gặp chị gái mình trộm đồ siêu thị và đi tố cáo cô, không phải bởi cậu ấy nghĩ mình có trách nhiệm phải báo với cảnh sát về tội của chị mình, mà bởi cậu ấy không muốn bị mọi người xem mình như một cậu bé có chị phạm tội. Một đứa trẻ mắc hội chứng Asperger có làm gì, nó cũng làm việc đó với suy nghĩ chuyện đó sẽ tác động thế nào đến mình, chứ không phải đến bất kỳ ai khác.”
“Còn có những nét đặc trưng khác của chứng rối loạn này không?”
“Có. Một người mắc chứng Asperger sẽ có tính tổ chức rất cao và thượng tôn luật lệ cũng như nghĩa vụ. Người đó có khuynh hướng tập trung vào các chi tiết hơn là toàn cảnh, và thường trở nên ám ảnh suốt nhiều tháng hoặc nhiều năm với một chủ đề đặc biệt. Người đó có thể nói về chủ đề đó hàng giờ, ngay cả khi đó là một chủ đề phức tạp. Vì thế, chứng rối loạn này thỉnh thoảng được gọi là hội chứng Giáo sư Nhỏ. Những đứa trẻ mắc hội chứng Asperger nói năng như người lớn, và chúng thường thấy thoải mái khi ngồi với bạn bè của bố mẹ mình hơn là khi chơi với đám bạn cùng tuổi.”
“Jacob có kiểu tập trung đến ám ảnh vào một chủ đề không?”
“Có. Cậu ấy đã tập trung vào vài chủ đề suốt nhiều năm, như nghiên cứu về chó, khủng long, và mới nhất là khoa học pháp y.”
“Còn điều gì chúng ta nên biết về một người mắc hội chứng Asperger nữa?”
“Người đó sẽ tôn trọng triệt để lệ thường và luật lệ đến mức mù quáng. Người đó thành thật đến mức đau lòng. Người đó không thích giao tiếp bằng mắt. Người đó bị mẫn cảm với ánh sáng, tiếng động, sự tiếp xúc, hay mùi vị. Ví dụ như, ngay lúc này, có lẽ Jacob đang cố hết sức để không nghe tiếng ù ù của bóng đèn huỳnh quang trên trần, một âm thanh mà các bạn và tôi đều có thể nghe thấy đây. Một đứa trẻ mắc hội chứng Asperger có thể rất vui tươi phấn khởi, nhưng ngay khi lệ thường của nó bị xáo trộn, nó có thể lên cơn suốt mười phút hoặc vài giờ liền.”
“Như cơn quấy dữ của trẻ con?”
“Chính xác là vì thế đấy. Ngoại trừ chuyện nó dữ dội hơn nhiều, bởi đây là một đứa trẻ mười tám tuổi và nặng đến 85 cân,” bác sĩ Moon nói.
Tôi có thể cảm nhận bố đang nhìn mình, nên tôi quay về phía bố. “Chuyện đó thường xảy ra không?” bố hỏi khẽ. “Những lúc lên cơn ấy?”
“Rồi bố cũng quen thôi,” tôi nói, dù tôi không chắc là thế. Thật sự, chẳng bao giờ bạn thay đổi được cơn bão. Bạn chỉ học cách tránh xa đường đi của nó mà thôi.
Giờ Oliver đang bước về phía bồi thẩm đoàn. “Có thể chữa khỏi chứng Asperger cho Jacob không?” anh ta tiếp tục hỏi bác sĩ Moon.
“Hiện tại, không có phương pháp điều trị nào cho chứng tự kỷ. Nó không phải là một thứ sẽ qua đi khi bạn lớn lên, mà là một thứ gắn liền với bạn mãi mãi.”
“Bác sĩ Murano, những năm qua, Jacob có những biểu hiện nào cho thấy một trong những triệu chứng bà vừa nêu hay không?”
“Tất cả những triệu chứng đó.”
“Ngay cả bây giờ, lúc đã mười tám tuổi sao?”
“Jacob giờ đã đương đầu khá hơn khi gặp những lúc bị xáo trộn lịch trình. Dù cho cậu ấy vẫn buồn bực, nhưng giờ cậu ấy đã có những cơ chế giúp xoa dịu. Thay vì hét lên như hồi bốn tuổi, giờ cậu ấy sẽ tìm một bài hát hay một bộ phim, rồi lặp đi lặp lại lời nhạc suốt.”
“Bác sĩ, tòa đã cho Jacob được nghỉ giác quan lúc cần thiết. Bà có thể giải thích chuyện đó là thế nào không?”
“Đấy là một cách để Jacob thoát ra khỏi sự kích động quá mức đang khiến cậu ấy buồn bực. Khi cậu ấy cảm thấy như mình đang dần đến ngưỡng mất tự chủ, cậu ấy có thể thoát ly và đến một nơi bớt hỗn loạn hơn, yên tĩnh hơn. Ở trường, cậu ấy có một căn phòng để tĩnh trí, và ở phòng xử án này, cậu ấy cũng có một khu vực tương tự như vậy. Bên trong phòng này có đủ mọi thứ đồ mà Jacob có thể dùng để xoa dịu bản thân, từ những chiếc chăn nặng, xích đu, cho đến một chiếc đèn cáp quang.”
“Bà đã nói rằng những đứa trẻ mắc chứng Asperger thuận theo luật lệ. Trong trường hợp của Jacob, có đúng thế không?”
“Có. Ví dụ như, Jacob biết rằng giờ học bắt đầu vào lúc 8:12 sáng, và vì đó là luật nên ngày nào cậu ấy cũng đi đúng giờ. Tuy nhiên, có một lần mẹ cậu ấy bảo rằng cậu ấy sẽ trễ học bởi cậu ấy có cuộc hẹn với nha sĩ. Cậu ấy đã lên cơn, đấm thẳng vào tường phòng ngủ của mình, và không thể trấn tĩnh để đi gặp nha sĩ. Trong đầu Jacob, lời thông báo của mẹ cậu ấy là một lời mời cậu ấy phá vỡ luật.”
“Cậu ấy đã đấm vào tường? Những đứa trẻ mắc chứng Asperger có khuynh hướng bạo lực sao?” Oliver hỏi.
“Đấy là chuyện chưa biết được. Thật sự là, một đứa trẻ mắc chứng Asperger ít có những hành động xấu hơn là một đứa trẻ bình thường, bởi đơn giản nó biết rằng thế là vi phạm luật. Tuy nhiên, một đứa trẻ mắc chứng Asperger cũng có một ngưỡng động khẩu-động thủ rất thấp. Nếu nó thấy mình cùng đường, theo nghĩa đen, hoặc trong lời nói, cảm xúc, nó sẽ bỏ chạy hoặc đánh lại một cách mù quáng.”
“Có bao giờ bà thấy Jacob làm thế chưa?”
“Rồi,” bác sĩ Moon nói. “Năm ngoái, Jacob đã bị đình chỉ học vì tội chửi một giáo viên. Có vẻ như một cô bé đã lừa nó làm chuyện đó, nói rằng nếu nó làm thế cô bé sẽ làm bạn nó. Sau đó, nó trả đũa bằng cách xô ngã cô bé, và bị đình chỉ.”
“Điều gì kích động phản ứng bạo lực của Jacob?”
“Cảm thấy bị coi thường, tôi nghĩ thế.”
“Bà có nói chuyện với cậu ấy về vụ việc đó không?” Oliver hỏi.
“Có.”
“Bà có giải thích tại sao một phản ứng bạo lực là không thích đáng không?”
“Có.”
“Bà có nghĩ cậu ấy hiểu việc cậu ấy đã làm là sai trái không?”
Bà bác sĩ ngập ngừng. “Ý thức đúng sai của Jacob không dựa vào một bộ luật tinh thần chủ quan. Mà nó dựa vào những chuyện từng được bảo là được phép và không được phép làm. Nếu anh hỏi cậu ấy, đánh người có đúng không, thì cậu ấy sẽ nói là không. Nhưng cậu ấy cũng bảo với anh rằng đem người khác ra làm trò cười là sai, và trong đầu cậu ấy, cô bé đó đã vi phạm luật đó trước. Khi Jacob đánh cô bé, cậu ấy không nghĩ mình sẽ làm cô bé bị thương đến mức nào, hay thậm chí không nghĩ rằng hành động của mình sẽ đi ngược lại một luật hành xử đến thế nào. Cậu ấy nghĩ cô bé đã làm tổn thương cậu ấy đến thế nào, và đơn giản là cậu ấy chỉ… phản ứng mà thôi.”
Oliver tiến về phía bục nhân chứng. “Bác sĩ Murano, nếu tôi bảo bà là Jacob đã cãi nhau với Jess Ogilvy, hai ngày trước khi cô ấy chết. Cô ấy còn bảo Jacob biến đi, thì bà nghĩ chuyện đó có tác động đến hành vi của cậu ấy không?”
Bà lắc đầu. “Jess rất quan trọng với Jacob, và nếu họ có cãi nhau, thì cậu ấy sẽ vô cùng buồn lòng. Khi đến nhà cô ấy vào ngày hôm đó, rõ ràng cậu ấy đã thể hiện rằng cậu ấy không biết cách cư xử. Cậu ấy bám vào lịch trình thường lệ hơn là suy nghĩ chiếu theo cuộc cãi vã đó. Khả năng cao là Jacob hình dung cuộc cãi vã như thế này: Jess bảo tôi biến đi. Tôi không thể biến đi, bởi tôi biết tôi luôn ở đây. Do đó, cô ấy không thật sự có ý nói những lời cô ấy đã nói, nên tôi sẽ xem như cô ấy chưa từng nói thế. Jacob sẽ không hiểu được ngôn ngữ của Jess muốn nói là cô ấy thật sự không muốn nhìn mặt cậu ấy nữa. Jacob không thể đặt mình vào vị trí của Jess, và cũng chính sự bất lực này đã ngăn cách cậu ấy với các bạn đồng trang lứa. Có thể có những đứa trẻ vụng về trong giao tiếp xã hội, nhưng Jacob thì khác, cậu ấy hoàn toàn không có sự thấu cảm, và hành động cũng như nhận thức của cậu ấy chỉ xoay quanh nhu cầu của mình mà thôi. Cậu ấy không bao giờ dừng lại để hình dung cảm giác của Jess, cậu ấy chỉ biết rằng cô ấy đã làm tổn thương cậu đến thế nào bằng cuộc cãi vã đó.”
“Jacob có biết rằng giết người là đi ngược lại luật pháp không?”
“Chắc chắn cậu ấy biết. Với niềm đam mê tội phạm học pháp y, cậu ấy có thể trích lại các văn bản luật không kém gì anh đâu, anh Bond. Nhưng với Jacob, tự bảo vệ mình là một luật không thể vi phạm, một luật cao hơn bất kỳ thứ gì khác. Từ chuyện Jacob nổi nóng với cô bé làm bẽ mặt cậu ấy ở trường, rồi không thật sự hiểu vì sao mình lại gặp rắc rối với chuyện đó bởi rõ ràng cô bé đó là người làm sai trước, tôi cũng có thể hình dung những chuyện đã xảy ra với Jess.”
Đột nhiên, Jacob đứng bật dậy. “Tôi không nổi nóng!” anh tôi hét lên, và mẹ phải nắm tay anh để kéo anh ngồi xuống.
Tất nhiên, hành động của anh đã phủ nhận hoàn toàn những lời anh vừa nói.
“Anh Bond, kiểm soát thân chủ của mình đi,” thẩm phán cảnh cáo.
Khi Oliver quay người lại, trông anh ta hệt như những người lính trong phim, leo lên một ngọn đồi và thấy trùng trùng quân địch chực sẵn ngay bên dưới, nhận ra rằng dù có chuyện gì xảy ra, họ cũng nắm chắc thất bại rồi. “Jacob,” anh ta thở dài. “Ngồi xuống.”
“Tôi cần khoảng nghỉ,” Jacob hét lên.
Oliver nhìn lên thẩm phán. “Thưa thẩm phán?” Và ngay lập tức, có người đến đưa bồi thẩm đoàn ra ngoài, còn Jacob thì chạy thục mạng lên phòng nghỉ giác quan.
Bố tôi hoàn toàn chẳng hiểu gì. “Đang có chuyện gì thế này?”
“Ta sẽ đợi trong mười lăm phút?”
“Bố có nên… Con có vào đó với Jacob không?”
Tôi đã vào rồi, bất kỳ lúc nào anh tôi vào đó. Tôi ngồi nơi góc phòng, tiêu khiển với mấy cái bóng đèn cáp quang, xem Jacob trấn tĩnh tinh thần. Nhưng giờ, tôi ngước lên nhìn bố. “Bố thích thì cứ đi,” tôi nói. “Con ngồi đây.”
Ký ức đầu đời của tôi. Tôi bị bệnh nặng lắm và cứ khóc mãi không dứt. Jacob khoảng sáu hay bảy tuổi gì đó, và anh cứ bám theo bảo mẹ chuẩn bị bữa sáng cho anh, trong khi mẹ đã thức suốt đêm chăm tôi. Lúc đó còn sớm lắm, mặt trời vẫn chưa mọc.
Con đói, Jacob nói.
Mẹ biết, nhưng giờ mẹ phải lo cho Theo.
Theo có chuyện gì thế?
Cổ nó đau, đau lắm.
Jacob im lặng một hồi, rồi nói, Con cá là nếu ăn kem cổ nó sẽ khá hơn đấy.
Jacob, mẹ tôi sững sờ. Con đang nghĩ về cảm giác của Theo sao?
Con không muốn cổ nó bị đau, Jacob nói.
Kem! Kem! Tôi hét lên. Mà thật sự nó còn không hẳn là kem, nó chỉ là kem đậu nành, hệt như tất cả những thứ khác trong tủ lạnh vậy. Nhưng nó vẫn được xem là một phương thuốc, chứ không phải bữa sáng.
Mẹ tôi đồng ý ngay. Được rồi. Kem, mẹ nói. Mẹ đặt tôi ngồi vào ghế ăn dặm, cho tôi một cái bát. Mẹ cũng cho Jacob một cái bát và xoa đầu anh. Mẹ sẽ báo với bác sĩ Moon là con đã chăm sóc cho em con, mẹ nói thế.
Jacob ăn kem của anh ấy. Cuối cùng, anh nói, cũng bình an thanh thản rồi.
Mẹ tôi vẫn xem đó là một ví dụ cho thấy Jacob đã thắng chứng Asperger để thể hiện tình thương với người em trai nhỏ tội nghiệp của anh.
Nhưng khi lớn hơn tôi mới thấy ra.
Jacob được một bát kem để ăn sáng mà không cần phải nài nỉ gì thêm.
Jacob khiến tôi thôi khóc thét ầm ĩ cả lên.
Hôm đó, anh trai tôi không cố giúp tôi. Anh chỉ đang cố giúp mình thôi.
* JacobTôi nằm dưới tấm chăn mà cảm thấy như hàng trăm bàn tay đang đè lên người, như tôi đang ở đáy biển và không thể thấy mặt trời, không nghe được những gì đang diễn ra trên bờ biển.
Tôi đã không nổi nóng.
Tôi không hiểu vì sao bác sĩ Moon lại nghĩ thế.
Tôi không hiểu vì sao mẹ tôi không đứng lên và phản đối. Tôi không hiểu vì sao Oliver không nói ra sự thật.
Tôi từng có những cơn ác mộng, thấy mặt trời lao đến quá gần trái đất, và chỉ mình tôi thấy ra chuyện đó, bởi da tôi có thể cảm nhận sự thay đổi nhiệt độ hơn bất kỳ ai khác. Dù cho tôi cố đủ mọi cách để cảnh báo mọi người, nhưng chẳng ai chịu nghe tôi, và cuối cùng cây cối bắt đầu bùng cháy như ngọn đuốc, cả nhà tôi bị thiêu sống. Tôi tỉnh dậy và thấy mặt trời đang lên, thế là tôi lại kinh hãi lần nữa, bởi làm sao tôi biết chắc rằng cơn ác mộng của tôi chỉ là ác mộng chứ không phải một điềm báo?
Tôi cũng nghĩ như thế về chuyện lúc này. Tôi đã nhiều năm tưởng tượng mình là kẻ xa lạ trong thế giới này, với những giác quan nhạy bén hơn những con người bình thường này, với những lối nói mà người bình thường không thể hiểu, những hành vi có vẻ kỳ quặc trên hành tinh này nhưng lại hoàn toàn hợp lý ở hành tinh quê hương tôi. Và cuối cùng những chuyện đó đã trở thành sự thật. Sự thật là dối trá và dối trá là sự thật. Những người trong bồi thẩm đoàn tin vào những gì họ nghe, chứ không tin những gì ngay trước mắt họ.
Chẳng ai chịu lắng nghe cả, dù cho tôi hét lên trong đầu một tiếng lớn đến đâu chăng nữa.