← Quay lại trang sách

- 7 - Oliver

Cô Inverholl, giáo viên hướng dẫn ở trường trung học, từng cho tôi làm một bài kiểm tra năng lực để xác định nghề nghiệp tương lai. Công việc được cho là hợp nhất với các kỹ năng của tôi là làm nhân viên điều tra tai nạn giao thông, và hiện nay trên thế giới chưa đến 50 người làm việc này. Công việc thứ hai là phụ trách bảo tàng Trung Quốc - Hoa Kỳ. Công việc thứ ba là làm chú hề trong rạp xiếc.

Tôi nhớ khá rõ là trong danh sách đó không có nghề luật sư.

Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi nghe nói là cô Inverholl đã nghỉ hưu sớm và chuyển đến sống ở cộng đồng Xã hội Không tưởng ở Idaho, đổi tên thành Diễm Phúc và nuôi lạc đà không bướu.

Frances Grenville, giáo viên hướng dẫn ở trường của Jacob, trông không có vẻ gì sẽ sớm mở trang trại nuôi lạc đà. Bà mặc một chiếc áo khoác dài gài nút đến tận cổ, và đôi tay bám chặt trên đùi đến nỗi tôi tưởng tượng thế nào da bà cũng hằn rõ dấu móng tay trên đó. “Bà Grenville,” tôi nói, “bà đang làm việc ở đâu?”

“Tại Trường Trung học Townsend.”

“Và bà đã làm giáo viên hướng dẫn ở đó được bao lâu rồi.”

“Đây là năm thứ mười tôi làm việc ở đó.”

“Trách nhiệm của bà gồm những gì?” Tôi hỏi.

“Tôi giúp các học sinh tìm và chọn trường đại học. Tôi viết thư giới thiệu cho các em nộp đơn vào trường đại học. Và tôi làm việc với các học sinh có vấn đề hành xử ở trường.”

“Bà có biết Jacob không?”

“Có. Bởi em ấy có IEP, tôi có can thiệp sâu vào việc tổ chức ngày học của em ấy, sắp xếp cho các nhu cầu đặc biệt của em ấy.”

“Bà có thể giải thích IEP là thế nào không?”

“Một chương trình giáo dục riêng biệt,” bà nói. “Đấy là một kế hoạch giáo dục được quy định bởi luật liên bang để cải thiện kết quả giáo dục cho những trẻ em bị khuyết tật. Mỗi chương trình giáo dục riêng biệt mỗi khác, dựa trên cá nhân em đó. Ví dụ như, với Jacob, chúng tôi lập một danh sách các quy định phải tuân thủ triệt để ở trường, bởi em ấy tuân thủ tốt thời gian biểu và quy định.”

“Bà đã từng nói chuyện với Jacob vì những lý do ngoài nhu cầu học hành của cậu ấy chưa?”

“Có rồi,” bà Grenville nói. “Có những lúc em ấy gặp rắc rối với giáo viên vì những hành động bốc đồng trong lớp.”

“Như thế nào?”

“Có lần, em ấy cứ bảo giáo viên sinh học là thầy đã dạy sai.” Bà ngập ngừng. “Thầy Hubbard dạy về cấu trúc ADN. Thầy ghép cặp adenine với adenine, thay vì với thymine. Khi Jacob bảo thầy ấy thế là không đúng, thầy Hubbard đã nổi giận. Jacob không nhận ra thầy giáo đang nổi giận, và cứ chỉ ra điểm sai. Thầy Hubbard cho em ấy lên gặp hiệu trưởng vì tội quấy rối lớp học.”

“Cậu ấy có giải thích cho bà biết vì sao cậu ấy không biết là giáo viên đang nổi giận không?”

“Có. Em ấy bảo gương mặt thầy Hubbard lúc tức giận trông rất giống khuôn mặt người khác khi hạnh phúc.”

“Có thật thế không?”

Bà Grenville mím môi. “Tôi đã để ý thấy thầy Hubbard thường hay nhếch môi mỗi khi bực mình.”

“Bà có biết rằng nếu ghép adenine với adenine là sai không?”

“Hóa ra là, Jacob đã nói đúng.”

Tôi liếc về bàn bị đơn. Jacob đang cười hết cỡ.

“Còn có tình huống nào bà phải giúp đỡ Jacob không?”

“Năm ngoái, em ấy gặp rắc rối với một học sinh nữ. Lúc đó cô bé đang rất buồn vì điểm thấp, và không hiểu sao đã nói với Jacob rằng nếu em ấy thật sự muốn làm bạn thì phải đi bảo thầy dạy toán đi…” Cô nhìn xuống đất. “Nói chung là nói một lời xúc phạm thầy ấy. Jacob bị đình chỉ vì chuyện đó, và sau đó em ấy đối chất với cô bé, và nắm cổ họng cô bé.”

“Rồi tiếp theo thế nào?”

“Một giáo viên thấy chuyện, và lôi em ấy ra. Jacob bị đình chỉ hai tuần. Nếu không vì chương trình giáo dục riêng biệt và chúng tôi hiểu rằng em ấy bị gây chuyện trước, thì Jacob đã bị đuổi học rồi.”

“Bà đã làm gì đề sửa đổi hành vi xã hội của Jacob trong trường?”

“Em ấy tham gia lớp kỹ năng xã hội, nhưng rồi Emma Hunt và tôi đã bàn chuyện tìm một gia sư riêng cho Jacob. Chúng tôi nghĩ tốt hơn em ấy nên tập những tình huống cụ thể thường khiến em ấy buồn bực, để có thể giải quyết chúng một cách hiệu quả hơn.”

“Bà đã tìm thấy một gia sư?”

“Phải. Tôi đã liên lạc với trường đại học, và họ đã hỏi ý những người trong trường.” Bà nhìn về phía bồi thẩm đoàn. “Jess Ogilvy là sinh viên đầu tiên ngỏ ý nhận lời.”

“Jacob đã học với cô ấy?”

“Phải, từ mùa thu năm ngoái.”

“Bà Grenville, từ khi Jacob học kèm với Jess Ogilvy, cậu ấy có lần nào nổi nóng nữa không?”

Bà lắc đầu. “Một lần cũng không.”

“Đến lượt cô đây,” tôi nói với Helen.

Công tố viên đứng lên. “Thầy Hubbard, giáo viên sinh học, ông ấy đã nổi giận và Jacob không nhận ra điều đó?”

“Không.”

“Bà có xem đấy là một hạn chế của Jacob không? Việc không biết lúc nào người khác nổi giận với mình ấy?”

“Theo những gì tôi biết về chứng Asperger thì đúng là có.”

“Vụ việc kia mà bà vừa nói, có phải Jacob đã chửi một giáo viên vì một lời thách đố, rồi tấn công cô bé đã thách cậu ta không?”

“Phải.”

“Jacob đã được dạy là không được dùng bạo lực thể lý để giải quyết các vấn đề, có phải thế không?”

“Đúng,” bà Greenville đã nói. “Em ấy biết đấy là một luật của trường.”

“Nhưng cậu ta đã vi phạm luật đó phải không?” Helen hỏi.

“Đúng.”

“Dù vậy, bà vẫn làm chứng rằng, chuyện tuân thủ luật rất quan trọng đối với Jacob?”

“Đúng,” bà Grenville nói.

“Jacob có lời giải thích nào với bà về lý do cậu ta vi phạm luật đó không?”

Bà Grenville chầm chậm lắc đầu. “Jacob bảo em ấy chỉ chộp lấy cô bé mà thôi.”

Helen ngẫm nghĩ đôi chút. “Bà cũng nói rằng từ khi bắt đầu học kèm, Jacob đã không nổi nóng ở trường.”

“Đúng là thế.”

“Có vẻ như cậu ta để dành cái đó cho thời gian sau giờ học,” Helen nói. “Tôi không hỏi gì thêm.”

Hôm nay tòa nghỉ sớm, bởi thẩm phán Cuttings có hẹn khám bệnh. Khi mọi người đã ra về, tôi mới lấy giấy tờ cho vào cặp. “Vậy,” tôi nói với Emma, “tôi muốn ghé qua nhà và nói chuyện với bà về lời chứng ngày mai.”

Từ góc nhìn này, tôi có thể thấy Theo và Henry đang tiến về phía chúng tôi.

“Tôi tưởng ta đã thảo luận rồi mà,” Emma nói mỉa.

Đúng thế thật. Nhưng tôi sẽ phát điên nếu về lại văn phòng mình trong khi Henry ở chung mái nhà với bà ấy.

“Chẳng bao giờ chuẩn bị cho đủ đâu,” tôi nói, “Ta có hai xe. Thật vô lý khi cả nhà bà lại chen chúc cả vào một xe. Có ai muốn đi với tôi không?”

Tôi nhìn thẳng về phía Emma. “Ý hay đấy,” bà nói. “Jacob, sao con không đi với Oliver?”

Thế là tôi chạy sau chiếc xe thuê của Henry, Jacob ngồi cạnh tôi ở băng trước. Cũng phải thuyết phục một lát cậu ấy mới chịu vào xe, bởi Jacob thích ngồi ở băng sau hơn, mà xe tôi thì lại không có. Jacob nghịch chiếc đài, nhưng chỉ có mỗi tần số AM, bởi chiếc xe bán tải của tôi có lẽ được sản xuất từ thời thế chiến không biết chừng. “Anh biết tại sao anh có thể mở các đài AM rõ hơn vào ban đêm không?” Jacob hỏi rồi trả lời luôn. “Bởi tầng điện ly phản chiếu tín hiệu radio tốt hơn khi không có mặt trời phát xạ ở tầng thượng quyển.”

“Cảm ơn,” tôi nói. “Tối nay tôi không thể nào ngon giấc nếu chưa được biết chuyện đó.”

Jacob nhìn tôi. “Thật sao?”

“Không, tôi đùa đấy.”

Cậu ấy khoanh tay lại. “Trong phiên tòa, anh có lắng nghe bản thân mình không vậy? Tôi không hiểu những lời mỉa mai. Tôi hoàn toàn tập trung vào bản thân mình thôi. Và bất kỳ lúc nào tôi cũng có thể trở nên hoàn toàn điên loạn đấy.”

“Cậu không điên,” tôi bảo. “Tôi chỉ cố cho bồi thẩm đoàn thấy rằng cậu điên chiếu theo pháp luật.”

Jacob rụt người vào ghế. “Tôi không mê gán nhãn.”

“Ý cậu là sao?”

“Khi tôi mới được chẩn đoán mắc Asperger, mẹ tôi đã nhẹ nhõm, bởi mẹ xem nó như một thứ gì đó có ích. Ý tôi là, khi nhìn một đứa trẻ học đọc nhanh hơn các bạn, và làm toán phức hợp ngay từ lớp ba, các giáo viên không nghĩ nó cần được giúp đỡ đặc biệt, dù cho nó có bị bạn bè trêu chọc suốt. Khi được xác định mắc chứng Asperger là tôi được có chương trình giáo dục riêng biệt, và thế là quá tốt, nhưng đồng thời cũng thay đổi mọi thứ theo chiều hướng xấu.” Jacob nhún vai. “Tôi cho là lúc đó tôi tưởng mình sẽ như một cô bé học chung với tôi hồi tiểu học. Nửa khuôn mặt cô có màu như rượu vậy. Người ta đến và hỏi thẳng cô về điều đó, và cô bảo từ lúc mới sinh nó đã như thế rồi, và nó cũng chẳng đau đớn gì. Thế là hết chuyện. Không ai hỏi cái đó có lây nhiễm không, và cũng chẳng có đứa nào lại không chịu chơi với cô vì cái đó. Nhưng khi ai đó biết anh bị tự kỷ, thì họ cứ cố nói thật to khi ngồi với anh, như thể anh bị điếc vậy. Và vài thứ mà người ta từng khen tôi như trí thông minh, trí nhớ tuyệt vời, đột nhiên chỉ là những thứ khiến tôi trông kỳ quặc hơn.” Jacob im lặng một hồi, rồi quay qua tôi. “Tôi không phải là tự kỷ, mà là tôi mang chứng tự kỷ. Tóc tôi màu nâu, bàn chân bằng bình thường. Nên tôi không hiểu vì sao tôi luôn là ‘thằng nhóc Asperger’.”

Tôi cứ chăm chăm nhìn đường. “Bởi thế còn hơn là thằng nhóc giết Jess Ogilvy,” tôi trả lời, và sau đó chúng tôi không nói gì nữa.

Henry xuất hiện đúng ngày món ăn trong nhà này không Asperger cho lắm. Emma làm thịt nướng và khoai tây nghiền, sốt thịt, và bánh không gluten. Nếu Henry để ý thấy không có rau xanh, hay thấy trên bàn chẳng có món gì không có màu nâu, thì ông ta cũng giữ trong bụng thôi.

“Henry,” tôi nói. “Ông làm lập trình viên?”

Ông gật đầu. “Hiện tại, tôi đang phân tích XML cho một ứng dụng chọn món cho iPhone, sẽ có 400 món Mỹ đương đại và thảo mộc Trung Hoa.” Thế là ông nói liền một mạch 15 phút về lập trình máy tính mà chẳng ai trong chúng tôi hiểu gì.

“Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh,” tôi nói.

“Thật ra, tôi làm việc cho Adobe,” Henry nói.

Chỉ có Theo và tôi khẽ cười vì câu đó. Tôi không biết Henry có bao giờ được chẩn đoán về chứng Asperger chưa. “Và anh đã tái hôn, phải chứ?” tôi vừa nói vừa nhìn Emma.

“Phải. Tôi đã có hai con gái,” ông nói, rồi vội vã thêm vào, “ngoài hai đứa con trai, tất nhiên rồi.”

“Tất nhiên rồi,” tôi trả lời, tay thì bẻ bánh. “Lúc nào anh đi?”

“Oliver!” Emma kêu lên.

Henry bật cười, “Tôi cho là chuyện đó tùy phiên tòa kéo dài bao lâu.” Ông ngã người ra sau. “Emma, bữa tối ngon thật đấy.”

Cứ chờ đến thứ Sáu Xanh Dương mà xem, tôi nghĩ thầm.

“Tốt hơn anh nên tìm một khách sạn, bởi anh đã thức một mạch 36 tiếng và chắc anh không chịu nổi nữa đâu.”

“Anh sẽ ở đây,” Emma tuyên bố. Cả Henry và tôi đều tròn mắt nhìn bà. “Thật vớ vẩn khi anh ở cách đây nửa giờ xe, trong khi ngày mai cả nhà đều đến cùng một nơi, phải không nào? Theo, bố ngủ trong phòng con, và con có thể ngủ trên đi văng.”

“Cái gì?” Theo nhăn nhó. “Sao con phải nhường phòng? Còn Jacob thì sao?”

“Để mẹ nói thế này cho con hiểu,” Emma trả lời. “Con muốn ngủ trên ghế bành hay con muốn giúp mẹ lúc Jacob lên cơn?”

Theo đẩy ghế, giận dữ bước ra. “Mấy cái gối phụ đâu rồi?”

“Anh không muốn để ai phải…” Henry nói.

“Emma,” tôi cắt lời, “ta nói chuyện vài phút được chứ?”

“À, phải rồi. Anh muốn điểm lại chuyện làm chứng chứ gì?” Bà quay qua Jacob. “Con yêu, con dọn bàn và cho bát đĩa vào bồn được không?”

Jacob đứng dậy và bắt đầu dọn dẹp, còn tôi kéo tay Emma lên lầu. “Ta cần nơi nào yên tĩnh,” tôi nói, và tôi đi trước, Emma theo sau vào phòng bà ấy.

Tôi chưa từng được vào đây. Nơi này thật yên bình, cả gian phòng đều sơn màu xanh lá và xanh nước biển. Tủ đồ sơn hình một khu vườn thiền, với một cái cào và ba viên đá. Trên cát có dòng chữ C-Ứ-U.

“Tôi chỉ lo lúc Helen thẩm vấn tôi thôi,” Emma nói, và bà chỉ kịp nói thế trước khi tôi ôm chặt và hôn lên môi bà. Một nụ hôn chẳng nhẹ nhàng chút nào. Hệt như tôi đang ép lên môi bà mọi cảm giác mà tôi không thể nói thành lời.

Khi đẩy được tôi ra, môi bà đã đỏ au, và thế càng khiến tôi xáp lại lần nữa, nhưng bà đã đặt tay lên ngực tôi, ngăn lại. “Chúa ơi,” bà nói, với một nụ cười dịu dàng. “Anh đang ghen.”

“Chứ chuyện đó là cái quái gì vậy? Thật vớ vẩn khi anh ở cách đây nửa giờ xe…”

“Chuyện là thế thôi. Anh ấy là bố của bọn trẻ, chứ đâu phải người lạ tình cờ ghé qua.”

“Vậy ông ta sẽ ngủ ngay phía bên kia bức tường này sao?”

“Từ chủ đạo trong câu đó là ‘ngủ’ mà,” Emma nói. “Anh ấy ở đây là vì Jacob. Tin tôi đi, Henry không có động cơ nào khác đâu.”

“Nhưng bà từng yêu ông ta.”

Emma cau mày. “Anh nghĩ tôi ngồi đây suốt mười lăm năm để chờ đợi anh ấy sao? Chờ đợi lúc anh ấy lại bước qua cánh cửa đó để tôi có thể cho anh ấy một phòng trên lầu rồi giở trò quyến rũ sao?”

“Không,” tôi rụt lại. “Nhưng ông ta thì chưa biết chừng.”

Emma tròn mắt nhìn tôi một hồi, rồi bà bật cười. “Anh vẫn chưa thấy cô vợ nhỏ và mấy bé con của anh ấy rồi. Tin tôi đi, Oliver, tôi không phải là tình yêu cuộc đời anh ấy, một người anh ấy không thể quên.”

“Với tôi, bà chính là thế,” tôi nói.

Bà nguôi cười, rồi nhón gót và hôn tôi.

“Chẳng phải anh cần thứ này sao?”

Vừa nghe tiếng Jacob gọi, chúng tôi liền tách nhau ra, giữ khoảng cách vài bước. Nhưng Jacob đang đứng ở cửa, một tay cầm nắm cửa và tay kia cầm cặp tài liệu của tôi.

“Hai người vừa…” Cậu ấy cứ lắp bắp. “Hai người…”

Không nói thêm gì nữa. Jacob ném mạnh chiếc cặp vào tôi, mạnh đến nỗi tôi phải nhăn mặt khi đỡ lấy nó. Cậu ấy chạy ào về phòng và đóng sầm cửa. “Nó đã thấy gì rồi?” Emma lo lắng hỏi. “Nó vào đây lúc nào thế?”

Đột nhiên, Henry xuất hiện ngay ngưỡng cửa, nhìn ra hành lang Jacob vừa chạy đi, rồi nhìn Emma. “Mọi chuyện ở đây ổn cả chứ?”

Emma quay qua tôi. “Tôi nghĩ anh nên về nhà đi.”