- 9, 10 - Oliver
“Jacob,” tôi nói ngay khi gặp cậu ấy, “ta cần nói chuyện.”
Tôi bước theo cậu ấy khi chúng tôi băng qua bãi đỗ xe, đủ xa người nhà Jacob để bảo đảm không ai nghe thấy. “Anh có biết thật sự không có từ nào cho đàn ông lăng loàn không?” Jacob hỏi. “Ý tôi là, có từ đĩ đực, nhưng thế lại liên quan đến tiền bạc…”
“Được rồi, nghe này,” tôi thở dài. “Tôi xin lỗi vì để cậu bắt gặp. Nhưng tôi không xin lỗi vì đã thích mẹ cậu đâu.”
“Tôi có thể sa thải anh,” Jacob nói.
“Cậu có thể. Nhưng chuyện đó còn tùy vào thẩm phán, bởi chúng ta đang giữa phiên tòa.”
“Nếu ông ấy thấy anh có hành động bậy bạ với thân chủ mình thì sao?”
“Bà ấy không phải là thân chủ của tôi,” tôi nói, “mà là cậu. Và cảm giác của tôi với mẹ cậu chỉ khiến tôi càng thêm quyết tâm thắng vụ này.”
Jacob ngập ngừng. “Tôi không nói chuyện với anh nữa,” cậu ấy lí nhí, rồi sải bước dài hơn cho đến khi chạm bậc cấp tòa án.
Ava Newcomb, bác sĩ tâm lý pháp y được bên bị đơn thuê, chính là át chủ bài của tôi. Nếu bà ấy không thể khiến bồi thầm đoàn hiểu ra rằng một vài đặc tính của hội chứng Asperger có thể khiến Jacob giết Jess Ogilvy mà không thật sự nhận thức vì sao chuyện đó là sai, thì chắc chắn Jacob sẽ bị kết án có tội.
“Bác sĩ Newcomb, bà có thể cho biết định nghĩa về điên theo pháp luật được không?”
Bà bác sĩ có vóc người cao, đĩnh đạc, và chuyên nghiệp. Đến bây giờ, mọi chuyện thật quá tốt đẹp.
“Luật nói rằng, vào thời điểm thực hiện hành động đó, bị cáo không có khả năng nhận thức đúng sai do một khiếm khuyết hay bệnh tật tâm thần nghiêm trọng,” Ava Newcomb trả lời.
“Bà có thể cho chúng tôi một ví dụ về khiếm khuyết hay bệnh tật tâm thần được không?”
“Một thứ gì đó có sự loạn trí tách biệt khỏi hiện thực, như chứng tâm thần phân liệt chẳng hạn.”
“Đấy là dạng khiếm khuyết tinh thần duy nhất được pháp luật xác định là điên sao?”
“Không.”
“Hội chứng Asperger có khiến người ta bị loạn trí không?”
“Không, nhưng có những triệu chứng của Asperger ngăn không cho người ta phân biệt được đúng sai vào một thời điểm cụ thể nào đó.”
“Chẳng hạn như?”
“Sự say mê mãnh liệt với một chủ đề có thể đến mức quá đáng và ám ảnh, đến mức nó cản trở những hoạt động thường nhật và thậm chí là vượt qua ranh giới mà luật pháp đặt ra. Tôi từng có một bệnh nhân quá say mê ngựa đến nỗi liên tục bị bắt vì tội xâm nhập vào chuồng ngựa trong vùng. Sự ham thích hiện thời của Jacob là phân tích pháp y và điều tra hiện trường. Tôi đã thấy rõ như thế qua cuộc nói chuyện với cậu ấy, cũng như khi thấy sự ám ảnh của cậu ấy với loạt phim CrimeBusters và những quyển sổ mà cậu ấy ghi lại chi tiết từng tập phim.”
“Làm sao một sự say mê như thế lại là bằng chứng để đưa ra trước tòa được?” Tôi hỏi.
“Chúng ta đã nghe biết rằng Jacob ngày càng tìm đến các hiện trường vụ án, nhờ vào chiếc đài dò được tần số của cảnh sát,” bà bác sĩ trả lời. “Và cái chết của Jess Ogilvy là một phần trong một hiện trường vụ án đầy tinh vi. Bằng chứng được sắp đặt sao cho lúc đầu mới nhìn vào, ta tưởng đó là một vụ bắt cóc, rồi cuối cùng mới khám phá ra nạn nhân đã chết. Có thể đây là cơ hội để tạo một hiện trường vụ án, thay vì chỉ quan sát những hiện trường hư cấu, và chính điều này khiến Jacob hành động đi ngược lại luật lệ, luật pháp, và nguyên tắc đạo đức. Lúc đó, cậu ấy chỉ nghĩ về việc mình đang tạo một hiện trường vụ án thật để cho các cảnh sát phá án. Như thế, sự say mê với phân tích pháp y, một sự say mê do hội chứng Asperger mà ra, đã khiến Jacob mang một niềm tin sai lầm rằng lúc đó, cái chết của Jess là một phần cần thiết để cậu ấy nghiên cứu khoa học pháp y. Và với chúng ta, thật ớn lạnh khi nạn nhân chỉ là một thiệt hại phụ trong quá trình theo đuổi một mục đích lớn hơn.”
“Nhưng Jacob không biết giết người là bất hợp pháp sao?”
“Hoàn toàn biết rõ. Cậu ấy là một gương mẫu cho việc tuân thủ luật, nhìn ra mọi chuyện đúng hoặc sai mà không để hoàn cảnh chi phối. Tuy nhiên, hành động của Jacob lúc đó không phải là hành động tự nguyện. Cậu ấy không hiểu bản chất và hậu quả hành động của mình, và cậu ấy không thể dừng lại.”
Tôi khẽ cau mày. “Nhưng chúng tôi cũng biết rằng Jess Ogilvy và Jacob vô cùng thân thiết. Chắc chắn điều này sẽ có tác động lên cậu ta chứ?”
“Thật ra, đấy lại là một lý do khác để chúng ta kết luận rằng chứng Asperger có liên quan đến những chuyện đau lòng đã xảy ra với Jess. Những người mắc hội chứng Asperger có một tâm thức không lành lặn, họ không thể đặt mình vào vị trí của người khác để hình dung người khác đang nghĩ hay cảm giác gì. Với một người bình thường, đấy là thiếu thấu cảm. Ví dụ như, nếu Jess đang khóc, Jacob sẽ không cố gắng an ủi cô ấy. Cậu ấy biết rằng những người đang chảy nước mắt thường là đang buồn, nhưng cậu ấy sẽ đưa ra một phán đoán dựa trên kinh nghiệm, chứ không phải phán đoán theo cảm xúc. Với một người mắc hội chứng Asperger, sự thiếu thấu cảm này là một khuyết tật bất thường, và nó tác động đến hành vi của họ. Trong trường hợp của Jacob, nó làm suy yếu khả năng nhận thức tác động của hành động mình đang làm trên Jess.”
“Nhưng, bác sĩ à,” tôi nói, vào vai một luật sư ma mãnh, “có sự khác biệt lớn giữa việc không thể đưa cho ai đó đang khóc một chiếc khăn tay, và việc giết cô ấy để làm hình nhân dựng hiện trường vụ án phải không?”
“Tất nhiên là thế.” Bà bác sĩ tâm lý của tôi quay về phía bồi thẩm đoàn. “Và đây có lẽ là chuyện khó hiểu nhất với những người bình thường. Với những vụ án kinh hoàng như vụ này, chúng ta luôn muốn tìm kiếm một động cơ gây án. Tôi đã suy nghĩ kỹ chuyện này, từ những trao đổi của tôi với Jacob và bác sĩ Murano, và tôi nghĩ câu trả lời nằm ngay ở cuộc cãi vã giữa Jess và Jacob vào hôm Chủ Nhật trước ngày cô ấy chết. Nét tiêu biểu của hội chứng Asperger là hạn chế năng lực tương tác xã hội. Vì thế, một người mắc hội chứng Asperger có nhận thức rất non nớt và hạn chế về các mối quan hệ, từ đó có thể khiến người đó tìm kiếm quan hệ theo một cách không chính đáng. Điều này dẫn đến sự thất vọng, thậm chí là giận dữ, nếu một mối quan hệ không được như những gì người đó dự tính.” Bà nhìn qua Jacob. “Tôi không biết chiều hôm Jess chết, cô ấy và Jacob đã nói chuyện gì, nhưng tôi tin rằng Jacob có tình cảm với gia sư của mình. Trớ trêu thay, nhận thức cứng nhắc của cậu ấy về phải trái đã đem lại một kết quả thật sự trái với mong đợi. Nếu Jess cự tuyệt tình cảm của Jacob, cậu ấy sẽ cảm thấy như cô ấy đã làm điều gì đó sai trái với cậu ấy, nghĩ rằng cậu ấy là nạn nhân.”
“Rồi thì sao?” Tôi hỏi.
“Cậu ấy mất tự chủ. Cậu ấy ra tay mà không nhận ra rằng cơ thể mình đang làm thế.”
“Tôi không hỏi gì thêm,” tôi nói rồi lại ngồi xuống. Tôi liếc qua Jacob, và cậu ấy đang trừng trừng nhìn tôi. Emma thì nhìn thẳng về phía trước. Bà có vẻ nhất quyết không thèm biết đến sự hiện diện của tôi.
Helen Sharp đứng dậy. “Có rất nhiều đứa trẻ được chẩn đoán mắc hội chứng Asperger. Vậy bà đang nói với chúng tôi rằng, trên thế giới có đầy những quả bom hẹn giờ sao? Nói rằng bất kỳ lúc nào, nếu chúng ta cư xử không vừa lòng những đứa trẻ đó, nó sẽ lao đến chúng ta với con dao trên tay sao?”
“Không, thật sự thì ngược lại mới đúng. Những người mắc hội chứng Asperger không có khuynh hướng bạo lực. Bởi họ không có một tâm thức chủ động, họ không có động cơ làm hại người khác. Thật sự là họ hoàn toàn không nghĩ đến cảm giác của người khác. Nếu một người mắc hội chứng Asperger trở nên bạo lực, thì đó là do việc chăm chăm theo đuổi một sở thích đặc biệt, hoặc trong tình trạng hoảng loạn, hoặc trong lúc hoàn toàn không hiểu gì về tương tác xã hội thích đáng.”
“Bác sĩ, có phải là hầu hết các bị cáo bị điên đều phạm tội do chứng rối loạn tinh thần tách biệt họ khỏi hiện thực không?”
“Đúng.”
“Nhưng Asperger không phải là chứng rối loạn tinh thần?” Helen nói.
“Đúng là thế. Nó thiên về rối loạn nhân cách hơn, với đặc điểm là sự biến dạng tri giác và quan hệ người với người.”
“Theo luật pháp, chẳng phải nếu không bị loạn thần thì người đó chịu trách nhiệm, với tư cách cá nhân và hình sự, cho hành động của mình sao?”
Bà bác sĩ biện luận. “Đúng, nhưng có lẽ có một lỗ hổng pháp lý cho những người mắc chứng Asperger. Chúng ta không thể chứng minh theo khoa học rằng một người mắc chứng Asperger có cảm nghiệm rất khác về hiện thực chủ quan so với người không mắc Asperger, nhưng sự nhạy cảm cực độ của người mắc Asperger với ánh sáng, âm thanh, hương vị, sự động chạm và thớ vải, lại cho chúng ta thấy rõ sự khác biệt đó. Nếu có thể xác định như thế, thì sẽ có sự tương đồng rất lớn giữa Asperger và loạn thần.”
Tôi thấy hơi nhói bên hông. Jacob thúc khuỷu tay, rồi đưa cho tôi một mảnh giấy trắng.
“Nếu đúng là thế,” Helen nói, “chẳng phải là nói rằng một người mắc chứng Asperger gặp khó khăn trong việc nhận thức hiện thực và vai trò của mình trong hiện thực đó?”
“Chính xác là thế. Vì thế nó mới cấu thành tình trạng mất trí chiếu theo pháp luật.”
“Nhưng chẳng phải bà cũng nói rằng sự say mê của Jacob với pháp y đã khiến cậu ta dùng cái chết của Jess để tạo hiện trường vụ án riêng cho mình sao?”
“Phải.”
“Và một hành động chủ định và có tính toán kỹ càng như thế nói lên rằng cậu ta biết rất rõ việc mình đang làm vào lúc đó?”
Bác sĩ Newcomb nhún vai. “Đấy là giả thuyết thôi.”
Helen tiến lại bục nhân chứng. “Bà cũng đã nói về sự thiếu thấu cảm. Bà nói rằng đấy là một trong những đặc tính tiêu biểu của hội chứng Asperger?”
“Đúng.”
“Bà xem đó là một tiêu chuẩn đánh giá theo cảm thức hay nhận thức?”
“Cảm thức.”
“Thiếu thấu cảm có phải là một phần trong tiêu chuẩn đánh giá sự mất trí chiếu theo pháp lý không?”
“Không.”
“Chẳng phải điều kiện quyết định để xác định sự mất trí chiếu theo pháp lý là xem bị cáo có nhận thức được phải trái đúng sai vào thời điểm phạm tội đó hay không sao?”
“Phải.”
“Bà xem đó là một tiêu chuẩn đánh giá theo cảm thức hay nhận thức?”
“Nhận thức.”
“Vậy thì thiếu thấu cảm đơn giản nghĩa là người đó lạnh lùng, vô cảm, tàn nhẫn,” Helen nói, “nhưng không nhất thiết đồng nghĩa với việc người đó không nhận thức được bản chất và hậu quả của hành động mình gây ra.”
“Chúng thường đi kèm với nhau,” bác sĩ Newcomb nói.
“Thật sao?” Helen hỏi. “Một tay súng mafia không có thấu cảm khi kết liễu nạn nhân của mình, nhưng thế không làm cho hắn ta bị mất trí chiếu theo pháp luật, mà chỉ thể hiện hắn là một kẻ rối loạn thần kinh nhân cách mà thôi.”
Jacob lại thúc tôi, nhưng tôi đã sẵn sàng đứng dậy rồi.
“Phản đối,” tôi nói. “Sau những lời khoa ngôn của cô Sharp có ẩn ý gì hay không?”
“Cho phép tôi nói,” bác sĩ Newcomb quay về phía thẩm phán xin phép. “Cô Sharp có vẻ đang cố hết sức để khiến một người mắc hội chứng Asperger tương đồng với một người rối loạn thần kinh nhân cách. Tuy nhiên, những người mắc chứng Asperger không thể hiện vẻ ngoài hấp dẫn như người rối loạn thần kinh nhân cách, và cũng không cố gắng chi phối người khác. Họ không có đủ kỹ năng giao tiếp để làm chuyện đó, và rõ ràng như thế thường khiến họ làm mồi cho những kẻ rối loạn thần kinh nhân cách, thay vì là kẻ săn mồi.”
“Nhưng,” Helen bật lại, “Jacob có tiền sử hung hăng, có phải không?”
“Theo tôi biết thì không.”
“Cậu ta có cãi nhau với Jess hai ngày trước khi cô ấy chết, một cuộc cãi vã mà các nhân viên ở Mama S’s Pizzeria đã nghe được, có phải thế không?”
“Phải, nhưng đấy không phải là xâm phạm thể lý…”
“Được rồi, còn chuyện cậu ta bị đình chỉ hồi năm ngoái vì cố gắng bóp cổ bạn học thì sao?”
Một chồng giấy đậu tới tấp trước mặt tôi, và tôi lại gạt chúng đi. ‘Cứ gượm đã,’ tôi nói qua kẽ răng với Jacob, rồi ra hiệu với thầm phán. “Phản đối…”
“Tôi sẽ nói lại. Bà có biết Jacob đã bị đình chỉ vì xâm phạm thể lý một cô gái học cùng khóa không?” Helen sửa lời.
“Phải, tôi có nhớ, bác sĩ Murano có nhắc đến chuyện này. Nhưng có vẻ như chuyện này cùng cũng chung một ngòi nổ, là một mối quan hệ không được như ý định của Jacob. Cậu ấy thấy mình bị sỉ nhục, và cậu ấy…”
“Mất tự chủ,” Helen cắt lời, “Phải chứ?”
“Phải.”
“Và vì thế mà Jess Ogilvy bị giết.”
“Theo tôi nghĩ thì, đúng là vậy.”
“Bác sĩ, nói tôi nghe đi,” Helen hỏi dồn. “Jacob vẫn còn mất tự chủ khi cậu ta sắp xếp lại giá đĩa trong nhà Jess theo thứ tự ABC, sau khi cô ấy chết sao?”
“Đúng.”
“Còn khi cậu ta chuyển thi thể Jess đi 200 mét đến một cống nước sau nhà thì sao?”
“Đúng.”
“Cậu ta vẫn còn mất tự chủ khi dựng cô ấy ngồi thẳng dậy và chu đáo quấn mền quanh người cô ấy, đặt tay cô ấy lên đùi hay sao?”
Bác sĩ Newcomb hơi giật giật cằm.
“Và cậu ta vẫn còn mất tự chủ nhiều ngày sau, khi đến thăm thi thể Jess và gọi cho 911 để cảnh sát tìm thấy cô ấy sao?”
“À,” bà bác sĩ nói yếu ớt. “Tôi nghĩ thế.”
“Vậy thì nói cho tôi biết,” Helen Sharp hỏi. “Lúc nào Jacob mới hết mất tự chủ đây?”
10- Emma“Họ đang nói dối,” Jacob nói ngay khi chỉ còn hai chúng tôi. “Họ đều nói dối.”
Tôi đã chứng kiến nó càng lúc càng đau đớn trong phiên đối chất của bà bác sĩ tâm lý. Dù Jacob đã đưa vô số giấy cho Oliver, nhưng anh vẫn không xin nghỉ cho đến khi Helen Sharp chốt xong những lời cay nghiệt cuối cùng. Nói thật, tôi không biết đã có chuyện gì, không biết nó có tránh tôi trong giờ nghỉ không, và không biết nó có còn giận chuyện hồi tối không. Nhưng có vẻ như, trong hai người ở bàn bị đơn, tôi vẫn là người dễ được đón nhận ở phòng nghỉ giác quan hơn là Oliver.
“Chúng ta đã nói về chuyện này rồi, Jacob,” tôi bảo. “Con nhớ chứ? Nói con điên chiếu theo pháp lý chẳng có nghĩa gì hết, nó chỉ cho bồi thẩm đoàn một lý do để kết luận con không có tội. Nó là một công cụ, như việc bảo ban giám hiệu trường là con mắc chứng Asperger vậy. Việc đó không thay đổi con người con… nó chỉ giúp các thầy cô giáo hiểu phong cách học của con hơn thôi.”
“Con không quan tâm đến chuyện biện hộ,” Jacob cãi lại. “Con quan tâm đến lời những người đó nói con đã làm gì.”
“Con biết luật pháp vận hành thế nào mà. Việc của bên công tố là tìm cho ra bằng chứng. Nhưng nếu Oliver có thể tìm được một nhân chứng đưa ra được một diễn biến khác, thì bồi thẩm đoàn có lý do để thấy hoài nghi, và họ không thể kết luận là con có tội.” Tôi cầm lấy tay Jacob. “Như thể cho ai đó một quyển sách, và nói rằng có thể có hơn một kết thúc cho truyện đó.”
“Nhưng con đã không muốn cô ấy chết, mẹ à. Đấy không phải là lỗi của con. Con biết đấy là một tai nạn.” Mắt Jacob ướt đẫm. “Con nhớ cô ấy.”
Tôi lạnh cả người. “Jacob, trời ơi,” tôi nói khẽ. “Con đã làm gì?”
“Chuyện đúng đắn. Vậy tại sao ta không thể nói với bồi thẩm đoàn như thế?”
Tôi muốn chặn hết những lời Jacob vừa nói ra, bởi tôi sắp phải lên làm chứng, và thế nghĩa là tôi không thể nói dối nếu công tố viên hỏi tôi Jacob đã kể những gì về cái chết của Jess. Tôi muốn chạy cho đến khi chỉ còn nghe thấy tiếng máu chảy rần rật trong huyết quản, thay vì lời thú nhận của nó.
“Bởi,” tôi nói nhẹ nhàng, “đôi khi điều người ta khó nghe nhất chính là sự thật.”