← Quay lại trang sách

- 11 - Oliver

Tôi biết thế này:

Trước khi vào giờ nghỉ giác quan, Jacob là một hỗn độn hoang dại.

Giờ khi chúng tôi trở lại phiên tòa, và Emma bước lên bục nhân chứng, bà cũng là một đống hỗn độn hoang dại.

Sau khi tôi qua phần nhân thân và quan hệ của bà với Jacob, tôi bước lại bục nhân chứng và giả vờ lóng ngóng đánh rơi cây bút. Khi cúi xuống, tôi thì thầm với bà. Cứ hít thở đi.

Trong mười lăm phút qua, có chuyện quái quỷ gì đã xảy ra thế này?

“Bà Hunt, bà sống bằng nghề gì?”

Bà không trả lời, mà cứ chăm chăm nhìn xuống đùi.

“Bà Hunt?”

Emma ngẩng đầu lên. “Anh có thể lặp lại câu hỏi được không?”

Tập trung đi, người yêu dấu, tôi nghĩ thầm. “Công việc của bà. Bà làm nghề gì?”

“Tôi từng viết cho một cột báo tư vấn,” bà nói khẽ. “Tôi được yêu cầu tạm nghỉ sau khi Jacob bị bắt.”

“Bà bước vào công việc đó như thế nào?”

“Tuyệt vọng. Tôi là bà mẹ đơn thân, với đứa con sơ sinh và một đứa con ba tuổi đột nhiên ngày càng có những hành vi tự kỷ.” Giọng bà dần mạnh mẽ hơn. “Các liệu pháp viên đến nhà tôi suốt ngày, họ cố để níu giữ Jacob không tuột hoàn toàn khỏi tay tôi. Tôi phải tìm một công việc, nhưng tôi không thể rời khỏi nhà.”

“Việc chẩn đoán cho Jacob bắt đầu thế nào?”

“Nó là một đứa bé khỏe mạnh, vui vẻ,” Emma nói và nhìn về phía Jacob. Đột nhiên bà như nghẹn lời, rồi bà lắc đầu. “Chúng tôi cho nó đi tiêm chủng, và trong vòng một tuần, đứa bé vô cùng dễ thương, mau miệng, thích tiếp xúc này không còn như trước nữa. Đột nhiên nó nằm nghiêng một bên, xoay xoay bánh của chiếc xe đồ chơi, thay vì đẩy nó đi khắp phòng khách.”

“Bà đã làm gì?”

“Tất cả mọi thứ,” Emma nói. “Tôi cho Jacob đi phân tích hành vi, trị liệu chuyên nghiệp, trị liệu thể lý, trị liệu ngôn ngữ. Tôi cho nó dùng chế độ ăn kiêng không gluten và casein. Tôi cho nó một chế độ vitamin và thực phẩm chức năng mà các bậc cha mẹ có con tự kỷ đã dùng và thấy hiệu quả.”

“Vậy nó hiệu quả không?”

“Một mức độ nào đó. Jacob không còn cách ly bản thân nữa. Nó có thể hòa nhập với thế giới, dù chỉ có giới hạn. Ban đầu người ta chẩn đoán nó mắc chứng rối loạn tự kỷ theo di truyền, rồi đến chứng rối loạn phát triển toàn diện, rồi cuối cùng là hội chứng Asperger.”

“Việc chẩn đoán cậu ấy bị Asperger có đem lại điều gì lạc quan hơn không?”

“Có,” Emma nói. “Jacob có tính hài hước khô khan nhưng phi thường. Nó là người thông minh nhất tôi từng biết. Và nếu tôi muốn có ai đó đi cùng khi tôi chạy việc vặt, hay lúc xếp chén đĩa, hay chỉ là đi dạo, nó liền nhanh chóng tình nguyện theo tôi ngay. Nó sẽ làm tất cả mọi chuyện tôi bảo. Và nó cũng sẽ không làm chuyện gì đó nếu tôi bảo nó không được làm. Có lẽ tôi là bà mẹ duy nhất không bao giờ phải lo lắng chuyện con trai mình chơi thuốc phiện hay uống rượu trước tuổi quy định.”

“Nhưng hẳn phải có những lúc thật khó khăn cho bà khi làm mẹ cậu ấy.”

“Tất cả những thứ tôi vừa nêu trên khiến các bạn nghĩ Jacob là đứa trẻ hoàn hảo, và đó là thứ khiến nó khác biệt với một đứa trẻ bình thường. Cả cuộc đời mình, Jacob muốn hòa nhập với bạn bè đồng trang lứa, và cả đời mình, tôi đã thấy nó bị bắt nạt và trêu chọc. Bạn không thể tưởng tượng cái cảnh phải cố gượng một nụ cười khi trong buổi tiệc của đội bóng mềm, con trai mình giành được phần thưởng cho người bị ném bóng trúng nhiều nhất. Bạn phải nhắm mắt lại khi dừng xe trước cổng trường, và con bạn bước ra khỏi xe với chiếc tai nghe bự chảng để chắn những tiếng ồn trong hành lang, và tệ hơn nữa, khi bạn có thể thấy những đứa trẻ khác làm trò sau lưng nó lúc nó đi vào lớp.”

“Nếu tôi đến nhà bà vào ngày thứ Ba,” tôi nói, “tôi sẽ để ý thấy gì lạ nào?”

“Món ăn. Nếu hôm đó là ngày thứ Ba, mọi món ăn đều phải có màu đỏ. Quả mâm xôi, dâu tây, và súp cà chua. Cá ngừ dùng để ăn sushi. Thịt bò nướng tái. Củ cải đường. Nếu món ăn hôm đó không có màu đỏ, Jacob sẽ rất kích động, và đôi khi nó bỏ lên phòng, không nói chuyện với chúng tôi nữa. Mỗi ngày trong tuần có một màu riêng, cho món ăn và cả áo quần. Trong tủ đồ của nó, áo quần được treo theo trật tự bảy sắc cầu vồng, và không được xáo màu của nó.”

Bà quay về phía bồi thẩm đoàn, đúng như chúng tôi đã tập trước. “Jacob mong muốn theo sát lệ thường. Sáng nào nó cũng thức dậy lúc 6:20, dù hôm đó là ngày đi học hay ngày nghỉ, và nó biết chính xác mấy giờ phải đến trường và mấy giờ nó sẽ về nhà. Nó chưa bao giờ bỏ một tập CrimeBusters nào được chiếu trên USA Network lúc 4:30 hằng ngày. Lúc ngồi xem, nó viết lại các ghi chú trong sổ, dù cho có nhiều tập nó đã xem đi xem lại hơn chục lần rồi. Nó luôn luôn để bàn chải ở bên trái bồn rửa mặt lúc đánh xong, và trên xe, nó luôn ngồi ở băng ghế sau, ngay cả khi chỉ có nó là hành khách duy nhất.”

“Khi lịch trình thường lệ của Jacob bị phá ngang thì có chuyện gì nào?”

“Sẽ khiến nó vô cùng buồn bực,” Emma nói.

“Bà có thể giải thích rõ hơn không?”

“Lúc còn nhỏ, gặp chuyện như thế, nó sẽ la hét và nổi cơn giận điên cuồng. Giờ nó ẩn mình hơn. Dễ hiểu nhất là, những lúc đó, các vị nhìn vào nó, nhưng thấy như nó không có ở đó vậy.”

“Bà còn một người con trai nữa phải không?”

“Đúng. Theo được mười lăm tuổi.”

“Theo có mắc hội chứng Asperger không?”

“Không.”

“Và áo quần của Theo có xếp theo trật tự cầu vồng không?”

Bà lắc đầu. “Hầu như lúc nào chúng cũng nằm vương vãi trên sàn.”

“Vào thứ Ba, cậu ấy chỉ ăn món ăn có màu đỏ thôi sao?”

“Nó ăn bất kỳ thứ gì không bị đóng đinh vào sàn nhà,” Emma nói, và có vài bà trong bồi thẩm đoàn bật cười.

“Có những lúc Theo không thích nói chuyện với bà chứ?”

“Chắc chắn rồi. Nó là một đứa trẻ rất bình thường.”

“Có gì khác nhau giữa sự tránh né của Theo và của Jacob không?”

“Có,” Emma nói. “Khi Theo không nói chuyện với tôi, là bởi nó không muốn. Còn khi Jacob không nói chuyện với tôi, là bởi nó không thể.”

“Bà đã có những bước để giúp Jacob thích ứng hơn với các tình huống xã hội phải không?”

“Phải,” Emma nói. Bà dừng lại, hắng giọng. “Tôi đã thuê một gia sư dạy kèm để giúp nó thực hành các kỹ năng xã hội, cô Jess Ogilvy.”

“Jacob có thích Jess không?”

Emma giàn giụa nước mắt. “Có.”

“Làm sao bà biết?”

“Nó thoải mái với cô ấy, và không có mấy người khiến nó được như vậy. Cô ấy khiến nó làm… Cô ấy khiến nó làm những chuyện mà bình thường chẳng bao giờ nó làm…” Emma òa lên, vùi mặt trong hai bàn tay.

Cái quái gì thế này?

“Bà Hunt,” tôi nói, “cảm ơn bà. Không hỏi…”

“Khoan,” Emma cất lời tôi. “Tôi chỉ… Tôi chưa nói xong.”

Đây là chuyện ngoài dự tính của tôi. Tôi lắc đầu nhẹ, nhưng Emma đang mải nhìn Jacob. “Tôi chỉ… Tôi muốn nói…” Bà quay về phía bồi thẩm đoàn. “Jacob đã bảo với tôi rằng nó không muốn cô ấy chết, nói rằng đây không phải lỗi của nó…”

Tôi tròn mắt. Đây là những lời chưa tập trước, những lời có thể gây nhiều nguy hiểm. “Phản đối,” tôi kêu lên. “Dựa vào tin đồn.”

“Anh không thể phản đối nhân chứng của mình được.” Helen hớn hở chọc vào.

Nhưng tôi không buộc phải cho nhân chứng của tôi đủ dây thừng để tự treo cổ mình, và treo luôn cả tôi nữa. ‘‘Vậy thì, tôi xong rồi,” tôi nói, ngồi xuống cạnh Jacob, và đột nhiên e sợ nhìn qua chiếc ghế còn trống.