- 18, 19 - Theo
Hôm nay là sinh nhật mười sáu tuổi của tôi, nhưng tôi chẳng kỳ vọng gì nhiều. Bởi hôm nay đã là ngày thứ sáu kể từ khi chúng tôi bắt đầu thấp thỏm đợi phán quyết. Nhưng thật ra, tôi cho là mẹ tôi cũng chẳng nhớ đâu. Bởi thế khi nghe mẹ gọi, Ăn sáng! tôi bước xuống lầu, tóc tai còn ướt vì mới tắm xong, rồi nhìn thấy một chiếc bánh chocolate thắp nến bên trên, tôi chết lặng không nói nên lời.
Hôm nay là thứ Năm Nâu, và chắc chắn là bánh không gluten, nhưng ăn mày mà đòi mâm son sao được.
“Chúc mừng sinh nhật, Theo,” mẹ tôi nói và bắt đầu hát. Bố, anh, và Oliver đều hát theo. Trên mặt tôi nở nụ cười thỏa mãn hết cỡ. Theo tôi biết thì bố tôi chưa từng dự sinh nhật tôi lần nào, trừ phi bạn tính cả giờ phút tôi ra đời ở bệnh viện, nhưng đấy đâu kể là sinh nhật.
Có đáng không? Trong tôi vang lên một tiếng xoắn xít như làn khói nến đang bay lên. Tất cả những chuyện đã qua có đáng để có một gia đình như những gia đình mày thường rình mò hay không?
Mẹ ôm lấy vai tôi. “Ước đi, Theo.”
Một năm trước, đây đúng là điều mà tôi ao ước. Tôi đã ước được thế này, thậm chí không cần bánh cũng được. Nhưng trong giọng mẹ có gì đó, có một khát khao của trái tim bao dung luôn đủ rộng cho cả hai anh em chúng tôi.
Nhưng khát khao đó giờ đang nằm trong tay mười hai bồi thẩm.
Tôi nhắm mắt và thổi nến, mọi người vỗ tay hoan hô. Mẹ tôi cắt bánh và cho tôi miếng đầu tiên. “Cảm ơn mẹ,” tôi nói.
“Mẹ hy vọng con thích nó,” mẹ tôi trả lời. “Và mẹ hy vọng con thích cái này.”
Rồi mẹ đưa cho tôi một bì thư. Bên trong là một tờ giấy viết tay:
Món nợ của con đã trả xong.
Tôi nghĩ về chuyến đi điên rồ của tôi đến California để tìm bố, về số tiền vé quá lớn, và đột nhiên tôi không nói nên lời.
“Nhưng,” mẹ nói, “nếu con làm thế lần nữa, mẹ sẽ giết con đấy.”
Tôi bật cười và mẹ vòng tay từ phía sau ôm tôi, hôn lên trán tôi.
“Còn đây nữa này.” Bố cũng đưa tôi một bì thư, có tấm thiệp rất bảnh viết chữ “Tặng con trai bố” và 40 đô.
“Con có thể bắt đầu tiết kiệm để lắp mạng mạnh hơn rồi đấy,” bố nói.
“Tuyệt quá đi,” tôi chẳng còn biết nói gì hơn.
Rồi Oliver đưa tôi một gói đồ bọc giấy quà. “Là cái này hoặc một hộp pizza,” anh giải thích.
Tôi lắc nó. “Là pizza calzone à?”
“Tin tưởng tôi chút đi nào,” Oliver nói.
Tôi xé hộp và thấy Sổ tay Tài xế Vermont.
“Sau khi xong phiên tòa, tôi nghĩ cậu và tôi có thể hẹn gặp tại Sở Nha vận và thi lấy bằng.”
Tôi phải cúi mặt xuống bàn, bởi nếu không làm thế, mọi người sẽ nhận ra là tôi đang chực khóc. Tôi còn nhớ lúc nhỏ, mẹ từng đọc cho chúng tôi mấy câu chuyện cổ tích vớ vẩn về con ếch biến thành hoàng tử và công chúa hôn mê tỉnh lại nhờ một nụ hôn. Tôi chưa bao giờ tin mấy thứ vớ vẩn đó. Nhưng ở đời ai biết được? Có lẽ tôi đã sai rồi. Có lẽ cuộc đời người ta có thể thay đổi trong tích tắc.
“Khoan,” Jacob nói. Cho đến giờ, anh vẫn im lặng quan sát, và cười toe toét. Trong những buổi tiệc sinh nhật của tôi lúc nhỏ, luật bất thành văn là Jacob phải giúp tôi thổi nến. Chia sẻ khoảnh khắc đó với anh còn dễ chịu hơn là để anh phá tung bữa tiệc vì lên cơn. “Anh cũng có quà cho em đây, Theo.”
Tôi không nghĩ trong đời mình lại có ngày được nhận quà của Jacob. Tôi không nghĩ anh ấy sẽ tặng quà cho bất kỳ ai, trừ phi bạn tính lọ nước hoa mà tôi đã mua tặng mẹ nhân dịp Giáng Sinh sau khi viết cả tên tôi và Jacob lên thiệp. Tặng quà là khái niệm không có trong đầu anh tôi.
“Cậu ấy có gì thế?” Oliver ngớ người khi Jacob chạy ngược lên lầu.
“Tôi không biết,” mẹ tôi trả lời.
Một phút sau, Jacob quay lại. Anh cầm trên tay con vịt nhồi bông mà anh thường ôm ngủ khi còn rất nhỏ. “Mở nó ra đi,” anh nói khi đưa nó cho tôi.
Tôi cầm lấy và lật đi lật lại trên tay mình. Không thấy giấy gói quà, có gì để mở đâu. “Mà…” tôi nói, cố gượng cười. “Làm sao để mở?”
Jacob lật ngược con vịt và lôi một sợi chỉ lỏng. Nó hé từng chút một rồi bung hẳn ra. Tôi nhét ngón tay vào cái lỗ vừa mở, thấy có thứ gì đó mịn và cứng.
“Cái hộp Tupperware của mẹ chui vào đó phải không?” mẹ nói khi tôi lôi nó ra khỏi lồng ngực của con vịt. Bên trong có thứ gì đó tôi không nhìn rõ. Tôi mở nắp hộp và chết trân khi thấy chiếc iPod Nano màu hồng. Tôi rón rén cầm nó lên, biết nó là cái gì trước cả khi tôi lật nó lại và thấy dòng chữ Jess Ogilvy được khắc vào lớp kim loại lưng máy.
“Con lấy cái này ở đâu?” mẹ tôi thảng thốt, còn tôi thì chao đảo như đang bay giữa chân không.
“Em muốn nó mà, phải không?” Jacob vẫn còn đầy háo hức. “Em làm rơi nó trên đường ra khỏi nhà cô ấy ngày hôm đó.”
Tôi như chết đứng giữa trận tiền. “Anh đang nói gì thế?”
“Anh đã bảo em rồi, anh biết em đã ở đó. Anh thấy dấu giày của em, cũng là những dấu giày anh dùng để sắp đặt hiện trường vụ án giả của anh. Và anh biết em đã lấy đồ của nhà khác…”
“Cái gì!” mẹ tôi kêu lên.
“…anh đã thấy mấy trò chơi video trong phòng em rồi.” Jacob rạng rỡ nhìn tôi. “Ở nhà của Jess, anh đã tẩy sạch cho em, để không ai biết là em đã làm gì. Và đã thành công, Theo à. Không ai biết em đã giết cô ấy đâu.”
Mẹ tôi thở dốc.
“Có chuyện quái quỷ gì thế này?” Oliver hỏi.
“Con không giết cô ấy!” tôi nói. “Con còn không biết cô ấy sống ở đó. Con không nghĩ có ai ở nhà. Con chỉ định ngó nghiêng một lát, có lẽ lấy vài đĩa CD, nhưng rồi con nghe thấy tiếng nước chảy trên lầu và lẻn lên. Cô ấy trần truồng. Cô ấy trần truồng và đã thấy con. Con hoảng lên, và cô ấy chạy ra khỏi vòi sen rồi trượt ngã. Cô ấy đập mặt vào cạnh bồn rửa mặt, vừa lúc con liền chạy đi. Con sợ cô ấy sẽ bắt được con.” Tôi không thở được, tôi tin là tim mình sẽ tan thành tro bụi ngay trong lồng ngực. “Khi con đi, cô ấy còn sống, ở trong phòng tắm. Rồi đột nhiên báo đài nói cô ấy đã chết, thi thể được tìm thấy bên ngoài. Con biết con không phải là người đưa cô ấy ra đó… có người khác đã làm, có lẽ là người đã giết cô ấy. Con nghĩ có lẽ cô ấy đã kể với Jacob về con lúc anh đến học kèm. Rồi họ cãi nhau về chuyện đó. Rồi Jacob… Con không biết. Con không biết mình đã nghĩ gì nữa.”
“Con đã không giết Jess,” mẹ tôi nói.
Tôi lắc đầu.
Mẹ tôi nhìn Jacob. “Và con đã không giết Jess.”
“Con chỉ di chuyển thi thể cô ấy đi thôi.” Jacob ngước mắt lên trời ngao ngán. “Con đã nói thế với mẹ suốt mà.”
“Jacob,” Oliver hỏi, “lúc cậu đến nhà Jess còn sống không?”
“Không! Nhưng tôi đã thấy ra là Theo từng ở đó, nên tôi làm những gì đúng đắn.”
“Sao con không gọi mẹ con, hoặc gọi xe cứu thương?” bố tôi hỏi anh. “Sao con lại dựng một hiện trường vụ án để che đậy cho Theo?”
Jacob nhìn thẳng vào tôi. Đau. Cái nhìn đó đau lắm. “Luật nhà,” anh nói. “Chăm sóc anh em của mình, nó là người duy nhất con có.”
“Anh có việc phải làm,” mẹ tôi bảo Oliver. “Đây là chứng cứ mới. Theo có thể làm chứng…”
“Cậu ấy có thể bị dính líu hoặc bị khởi tố vì tội che giấu thông tin…”
“Anh có việc phải làm,” mẹ tôi lặp lại.
Oliver liền với tay lấy áo khoác. “Đi thôi,” anh nói.
Jacob và tôi là những người cuối cùng ra khỏi bếp. Chiếc bánh vẫn còn nằm trên bàn, cạnh những món quà của tôi. Nó trông như đồ trưng bày trong viện bảo tàng vậy, không được động đến. Đời không ai đoán trước được. Mới năm phút trước chúng tôi còn mừng tiệc. “Jacob?” tôi gọi và anh tôi quay lại. “Em không biết phải nói gì.”
Anh ngượng nghịu vỗ vai tôi. “Đừng lo,” Jacob trả lời. “Anh gặp chuyện đó suốt mà.”
* 19 - JacobHôm nay là ngày 15 tháng 4. Cùng ngày này năm 1912, tàu Titanic đã chìm. Cùng ngày này năm 1924, Rand McNally cho xuất bản tập atlas đường đầu tiên. Cùng ngày này năm 1947, Jackie Robinson chơi trận đầu tiên cho Brooklyn Dodgers. Hôm nay cũng là sinh nhật của Leonardo da Vinci, nhà văn Henry James, cô gái đóng vai Hermione trong phim Harry Potter, và em trai Theo của tôi.
Tôi từng ghen tỵ với ngày sinh nhật của Theo. Vào ngày 21 tháng 12, sinh nhật của tôi, chỉ có một sự kiện đáng nhớ từng xảy ra là vụ nổ máy bay số hiệu 103 của Pan Am trên bầu trời Lockerbie hồi năm 1988. Frank Zappa sinh trùng sinh nhật với tôi, nhưng nói thật là làm sao so sánh ông ấy với Leonardo da Vinci được. Hơn nữa, sinh nhật của tôi lại là ngày ngắn nhất trong năm. Tôi luôn có cảm giác như mình bị ám vậy. Có lẽ Frank Zappa cũng vậy.
Dù thế, hôm nay tôi không ghen tỵ với ngày sinh nhật của Theo. Thật sự là, tôi quá háo hức được tặng món quà tôi để dành lâu nay cho nó.
Oliver bảo cả Theo và tôi sẽ có cơ hội lên tiếng trước tòa. Có vẻ như thế là không đủ để bồi thẩm đoàn biết rằng những vết bầm trên mặt của Jess là do vết nứt sọ nền ở vùng hốc mắt, máu chảy theo lớp bề mặt và tạo nên những chỗ tụ máu. Hay nói cách khác, chuyện mọi người tưởng là một cô gái bị đánh rất có thể chỉ đơn giản là cô ấy ngã xuống và đập đầu vào nền. Có vẻ như cả bồi thẩm đoàn và thẩm phán cần phải nghe Theo và tôi giải thích cùng một chuyện theo những lời lẽ khác nhau.
Tôi cho là tôi không phải người duy nhất không phải lúc nào cũng hiểu được những lời người ta nói.
Mẹ tôi đang lái xe, Oliver ngồi kế bên, còn tôi và Theo ngồi ở băng sau. Bố tôi trực ở nhà phòng khi tòa gọi trong thời gian 20 phút chúng tôi đang trên đường đến đó. Mỗi lần xe chạy ngang vũng tuyết, tôi lại thấy như mình đang nhảy trên nệm, một trò hai anh em chúng tôi thường chơi khi còn nhỏ. Chúng tôi từng tin rằng nếu nhảy đủ cao, chúng tôi có thể với đến trần nhà, nhưng giờ tôi không nghĩ thế nữa.
Sau bao nhiêu năm Theo bảo vệ cho tôi, giờ cuối cùng tôi cũng làm anh hai được rồi. Tôi đã làm chuyện đúng đắn. Tôi không biết vì sao các bồi thẩm đoàn lại chậm hiểu đến thế.
Theo mở nắm tay ra, bên trong là chiếc iPod từng là của Jess. Nó lôi trong túi ra một sợi dây màu trắng, tai nghe của nó. Nó nhét chúng vào tai.
Tôi muốn hỏi thẳng tất cả những chuyên gia từng nói rằng mắc hội chứng Asperger nghĩa là không biết thấu cảm.
Vậy thì đây là gì?
Người không biết thấu cảm chắc chắn không cố gắng bảo vệ người mình yêu thương, ngay cả khi làm thế đồng nghĩa với việc phải ra tòa.
Đột nhiên, Theo rút một tai nghe và đưa qua tôi. “Nghe đi,” nó nói, và tôi làm theo. Nhạc của Jess, một bản giao hưởng piano đang xoáy tròn đi vào đầu tôi. Tôi nghiêng đầu về phía em trai mình để vừa tầm sợi dây, và thế là suốt chặng đường, chúng tôi gắn bó với nhau.