- 11 - Cưỡng chế
Ngày để Valentina kháng cáo quyết định của Sở Nhập cư đã được xác định. Đột nhiên ba tôi nhận ra mình không yếu đuối như ông tưởng. Buổi kháng cáo tổ chức ở Nottingham vào tháng Tư.
‘Tôi không đi’ ba nói.
‘Ông đi’ Valentina nói.
‘Cô đi một mình đi. Vì sao tôi phải lên tận Nottingham chứ?’
‘Đồ ngu. Nếu ông không đi, đám quan liu nhập cư sẽ hỏi chồng cô đâu? Sao cô không chồng?’
‘Bảo đám quan liu đó tôi bệnh. Nói với họ tôi không đi.’
Valentina hỏi ý kiến luật sư của cô ta ở Peterborough. Anh ta cho biết cô ả sẽ rất khó kháng cáo nếu chồng cô ả không đi cùng, trừ phi có thể chứng minh là ông chồng bị bệnh.
‘Trong đầu ông bị bệnh’ Valentina nói với ba tôi. ‘Ông gây quá nhiều chuyện. Nói quá nhiều điều điên khùng. Lúc nào cũng hôn hít. Ông già tám tư tuổi không ra gì. Bác sĩ phải viết thư.’
‘Tôi không bệnh gì cả’ ba tôi đáp. ‘Tôi là một nhà thơ, một kỹ sư. Nhân tiện, Valentina, cô phải nhớ là ngay bản thân Nietzsche cũng bị đám người kém thông minh hơn coi là điên khùng đấy. Chúng ta sẽ đi gặp bác sĩ Figges. Bà ấy sẽ nói với cô tôi không bị khùng.’
Bà bác sĩ làng này là một phụ nữ nói năng nhỏ nhẹ sắp đến lúc nghỉ hưu. Bà ấy đã chữa bệnh cho ba mẹ tôi hơn hai mươi năm.
‘Tốt. Chúng ta tới chỗ bác sĩ Figges. Rồi tôi sẽ nói với bác sĩ Figges về chuyện làm tình bằng miệng’ Valentina nói. (Cái gì? Làm tình bằng miệng? Ba tôi?)
‘Không không! Valya, sao gặp ai em cũng muốn nói chuyện này chứ?’ (Ba cũng nói chuyện này với tôi đâu có ngại ngần gì!)
‘Tôi sẽ nói với bà ta là ông chồng tám mươi tư tuổi muốn làm tình bằng miệng. Ông chồng chèm nhẹp ướt nhoét muốn làm tình bằng miệng.’ (Làm ơn mà ba, con muốn ói rồi.)
‘Làm ơn mà, Valenka’
Valentina mủi lòng. Họ sẽ đến chỗ một bác sĩ khác vậy. Valentina và bà Zadchuk ấn ba tôi vào chiếc xe thổ tả. Vì sợ ông đổi ý họ vội vàng đến phòng khám đến nỗi chiếc áo khoác của ba tôi bị cài lộn nút còn giày thì bị mang ngược. Thay vì mang kính cận ông lại mang nhầm kính lão khiến trước mắt ba tôi thứ gì cũng mờ ảo - mưa, cần gạt nước, cửa xe mù sương, hàng giậu nhạt nhòa. Valentina ngồi đằng trước, lái xe loạng choạng theo kiểu tự học trong khi bà Zadchuk ngồi đằng sau bíu chặt lấy Nikolai, đề phòng ông mở cửa phóng ra ngoài. Bọn họ lao hết tốc lực trên con đường làng nhỏ hẹp, vụt qua mấy vũng bùn, khiến đám gà lôi cong đuôi chạy tán loạn.
Họ không đưa ông đến chỗ bác sĩ Figges ở trạm xá trong làng mà chọn một chi nhánh của nó ở làng kế cận, nơi một bác sĩ khác làm việc. Họ muốn gặp vị bác sĩ trung niên người Ấn nhưng chỉ có bác sĩ trực thay ở đó. Bác sĩ Pollock còn trẻ, tóc đỏ, và rất xinh đẹp. Ba tôi không muốn khai bệnh với cô ta. Ông trố mắt săm soi cô ta qua đôi kính lão mờ hơi nước, rồi cố gắng đổi lại đôi giày cho đúng mà không để cô ta nhìn thấy. Valentina giành phần nói chuyện. Cô ả tin chắc người phụ nữ trẻ tuổi này sẽ thông cảm với mình, bèn kể tỉ mỉ về những hành động quái lạ của ba tôi - ho, táo Toshiba, lẩm bẩm về máy kéo, thường xuyên đòi hỏi quan hệ. Bác sĩ Pollock chăm chú quan sát ba tôi, để ý đến đôi giày mang ngược, ánh mắt nhìn chằm chằm, áo khoác cài lộn nút, rồi hỏi ông mấy câu:
‘Ông đã lập gia đình bao lâu rồi? Có gặp trục trặc tình dục gì không? Vì lý do gì mà ông đến gặp tôi?’
Câu nào ba tôi cũng trả lời là ‘Tôi không biết’. Sau đó ông quay sang Valentina, vung tay khoa trương, ‘Bởi vì cô ta mang tôi đến đây! Đồ quỷ sứ đến từ địa ngục!’
Bác sĩ Pollock từ chối viết thư cho Sở Nhập cư thông báo rằng ba tôi không đủ sức khỏe tham dự phiên tòa kháng cáo của Valentina. Nhưng cô ta bảo sẽ lấy hẹn cho ông gặp một chuyên gia tư vấn tâm lý ở bệnh viện quận Peterborough.
‘Thấy chưa!’ Valentina hân hoan kêu lên. ‘Bác sĩ nói ông khùng đó!’
Ba tôi im thin thít. Ông không hề muốn kết quả như vậy.
‘Con có nghĩ là ba khùng không, Nadia?’ ông hỏi tôi qua điện thoại vào ngày hôm sau.
‘Ô, ba à, nói thật thì con cũng hơi nghĩ vậy. Chỉ có điên ba mới đi cưới Valentina - lúc đó con đã nói vậy mà.’ (Tôi muốn nói, Ha ha! Con đã bảo ba mà! Nhưng tôi ráng nhịn.)
‘À, như vậy không phải là khùng. Chỉ là một sai lầm nhỏ thôi. Ai chẳng mắc sai lầm chứ.’
‘Điều đó thì đúng’ tôi nói. Tôi vẫn còn giận ông, nhưng cũng cảm thấy thương xót ông.
‘Làm tình bằng miệng thì có dính dáng gì ở đây?’ tôi hỏi Vera. Chúng tôi lại trao đổi tin tức với nhau. Cuộc nói chuyện dần đã trở nên thân mật.
‘Ô, đó là ý tưởng bẩn thỉu của Margaritka Zadchuk. Có vẻ Valentina nói với bà ta là chúng ta đang tìm cách hủy hôn vì hai người không có quan hệ tình dục’
‘Nhưng họ có...?’
‘Xin lỗi, Nadezhda. Đừng nói nữa, kinh tởm quá.’
Dù sao thì tôi cũng moi được câu chuyện từ ba. Valentina thường hay trò chuyện với bà bạn Margaritka Zadchuk, bà ta cũng mách lẻo nhiều chuyện với ả. Rằng bà Mayevska quá cố là một phụ nữ ranh ma tằn tiện. Trước khi chết, bà ấy đã để dành được một gia tài lớn. Hàng trăm ngàn bảng. Số tiền đó được giấu đâu đó trong nhà. Vì sao ông chồng keo kiệt không đưa cho ả chứ? Ông chồng keo kiệt cười khúc khích khi kể cho tôi nghe chuyện này. Cô ả có lật tung cả căn nhà lên cũng đừng hòng tìm được một xu.
Bà Zadchuk cũng dạy Valentina một cụm từ mới: làm tình bằng miệng. Rất phổ biến ở Anh quốc, bà Zadchuk nói. Báo chí tiếng Anh viết đầy ra đấy. Người Ukraina tốt thì không làm chuyện này. Ông chồng keo kiệt sống ở Anh quốc quá lâu, đọc quá nhiều báo chí Anh quốc, nên nhiễm luôn trò làm tình bằng miệng kiểu Anh quốc. Làm tình kiểu này cũng tốt, bà Zadchuk tiếp, bởi vì mọi người sẽ cho đây là cuộc hôn nhân thực sự, ông chồng keo kiệt không thể viện cớ hủy hôn được.
Bà Zadchuk còn nói với cô ả một chuyện khác nữa - nếu cô ả ly dị ông chồng keo kiệt đánh vợ vì chuyện làm tình bằng miệng, chắc chắn ả sẽ được chia nửa căn nhà. Đó là luật Anh quốc. Bay bổng với giấc mơ giàu có đế vương, ả thách thức ba tôi.
‘Trước tiên tôi lấy hộ chiếu thị thực, sau đó tôi ly dị. Khi ly dị tôi sẽ có nửa căn nhà.’
‘Sao không bắt đầu từ giờ luôn?’ ông nói. ‘Chúng ta sẽ chia đôi nhà. Cô và Stanislav ở trên lầu, tôi ở bên dưới.’
Ba tôi bắt đầu vẽ thiết kế - bản đồ tầng trệt, tầng lầu, cửa cần bịt lại, chỗ cần đục thông. Những bức vẽ nguệch ngoạc lấp đầy các xấp giấy vẽ. Nhờ hàng xóm giúp, ông đem giường mình xuống đặt ở căn phòng khách chứa đầy táo, căn phòng mà mẹ nằm lúc qua đời. Ông nói với Vera mình ở đó là vì không leo cầu thang nổi.
Nhưng căn phòng đó lạnh quá, ông thì không muốn tăng sưởi vì sợ hư táo. Ông bắt đầu ho và thở khò khè. Valentina sợ ông chết trước khi ả lấy được hộ chiếu Anh quốc (ông nói vậy) nên đưa ông tới gặp bác sĩ Figges. Bà bác sĩ nói ông cần giữ ấm buổi tối. Giường của ông được chuyển sang phòng ăn kế bếp, nơi nồi hơi sưởi trung tâm bật suốt ngày đêm. Gian phòng này ban đầu không có vách ngăn, nhưng ông nhờ Mike lắp cửa vào, bởi ông sợ Valentina sẽ giết chết ông vào ban đêm (ông nói vậy). Trong căn phòng này, ông ngồi làm việc, ngủ nghê, ăn uống. Ông sử dụng phòng vệ sinh nhỏ dưới lầu và phòng tắm trước đây được dành riêng cho mẹ. Thế giới của ông bị thu hẹp trong một căn phòng nhưng trí óc ông vẫn phiêu lưu tự do khắp các luống cày trên toàn thế giới.
Cũng như Ukraina, Ailen là một đất nước đa phần là nông thôn, nhưng phải chịu nhiều sức ép khi ở gần một nước láng giềng có nền công nghiệp hóa hùng mạnh. Ailen đóng góp vào lịch sử máy kéo bằng kỹ sư thiên tài Harry Ferguson. Ông này sinh năm 1884, gần Belfast.
Ferguson là một người thông minh và nhạy bén, rất yêu thích máy bay. Nghe đồn ông là người đầu tiên trong Vương quốc Anh lắp ráp và tự bay máy bay riêng vào năm 1909. Nhưng sau đó ông ta nhận ra việc cải thiện hiệu suất sản xuất nông nghiệp chính là sự đóng góp vinh danh tên ông cho nhân loại.
Cái cày hai lưỡi đầu tiên của Harry Ferguson được gắn vào khung gầm một chiếc Ford Model T vốn được sử dụng như máy kéo. Nó được đặt tên là Eros. Chiếc cày này được lắp đằng sau máy kéo, và thông qua hệ thống lò xo cân bằng được thiết kế khéo léo, người lái xe có thể nâng lên hạ xuống chiếc cày nhờ một chiếc cần gạt ở gần ghế ngồi.
Trong lúc đó, hãng Ford cũng đang nghiên cứu phát triển máy kéo. Thiết kế của Ferguson tiến bộ hơn và tận dụng hệ thống liên kết thủy lực, nhưng Ferguson biết dù có là thiên tài, ông cũng không thể một mình đạt tới ước mơ. Ông cần một công ty lớn hơn để sản xuất thiết kế của mình. Do đó ông lập một thỏa thuận miệng với Henry Ford, hai bên chỉ bắt tay thay vì ký kết giấy tờ. Sự cộng tác giữa Ford và Ferguson đem lại cho thế giới chiếc máy kéo Fordson, ưu việt hơn hẳn những loại máy kéo được biết đến trước đó và là tiền thân của mọi loại máy kéo hiện đại.
Tuy nhiên, thỏa-thuận-miệng này chấm dứt vào năm 1947 khi Henry Ford II thừa kế đế chế của ba, và bắt đầu sản xuất máy kéo thế hệ mới Ford 8N dựa trên thiết kế của Ferguson. Tính tình cởi mở vui vẻ của Ferguson không sao chống lại đầu óc lạnh lùng của một nhà làm ăn người Mỹ. Vụ tranh chấp được đưa ra tòa vào năm 1951. Ferguson đòi 240 triệu đô, nhưng chỉ được đền bù 9,25 triệu đô.
Không nản lòng, Ferguson nảy ra một ý tưởng mới. Ông tìm đến công ty Standard Moto ở Coventry với kế hoạch cải tiến chiếc Vanguard thành máy kéo. Nhưng thiết kế này cần chỉnh sửa lại vì xăng dầu vẫn rất khan hiếm trong thời hậu chiến. Thách thức lớn nhất cho Ferguson là chuyển từ động cơ chạy xăng sang động cơ diesel. ông đã chế tạo thành công chiếc TE-20 nổi tiếng với hơn nửa triệu chiếc được lắp ráp ở Anh thời kỳ đó.
Đời sau nhớ đến Ferguson như là người kết hợp hai sản phẩm công nghệ vĩ đại của thời đại: máy kéo và xe hơi gia đình, nông nghiệp và phương tiện đi lại, vốn đều có cống hiến to lớn cho cuộc sống nhân loại.
Cuối cùng ba tôi cũng đi dự buổi kháng cáo của Valentina ở Nottingham. Cô ả làm sao thuyết phục được ba tôi nhỉ? Có phải ả đe dọa sẽ nói với đám người quan liu về chuyện làm tình bằng miệng không? Có phải cô ả dùng đôi vú như hai đầu nổ ngư lôi kẹp lấy cái đầu xương xẩu của ba rồi thỏ thẻ những lời ngọt ngào vào máy trợ thính của ông? Ba tôi giữ kín chuyện này nhưng ông có một kế hoạch khá ranh ma.
Họ đến Nottingham bằng xe lửa. Valentina mua cho mình một bộ đồ mới nhân dịp này; một bộ vest xanh với viền lụa polyester màu hồng hợp tông với màu môi và màu móng tay. Tóc cô ả bới cao thành một búi màu vàng và được giữ chặt nhờ kẹp và keo xịt. Ba tôi mặc lại chính cái bộ vest ông mặc hôm đám cưới cùng chiếc áo sơ mi trắng nhàu nhĩ, cổ áo rách tươm, hai nút trên cùng được đính bằng chỉ đen. Đầu ông đội một cái nón lưỡi trai màu xanh mà ông gọi là ‘lordovska kepochka’ (nghĩa là ‘nón quý tộc’) mua ở Co-op Peterborough hai mươi năm trước. Valentina dùng kéo nhà bếp tỉa tót lại mái tóc của ông cho gọn gàng, chỉnh lại cà vạt, rồi thậm chí hôn nhẹ một cái lên má ông.
Họ được đưa vào căn phòng sơn màu be ảm đạm, nơi hai người đàn ông mặc vest xám và một phụ nữ mặc áo len xám ngồi sau chiếc bàn nâu để mấy chồng giấy, một bình nước và ba cái ly. Valentina được gọi lên trước, trả lời hàng loạt câu hỏi trong đó cô ả mô tả chi tiết ả và ba tôi gặp gỡ nhau ở Câu lạc bộ Ukraina tại Peterborough như thế nào, họ yêu nhau từ cái nhìn đầu tiên ra sao, ông đã theo đuổi cô ả bằng thơ và thư tình thế nào, họ làm đám cưới trong nhà thờ và sống hạnh phúc bên nhau ra sao.
Khi đến lượt ba tôi, ông nhỏ nhẹ hỏi liệu mình có thể trình bày riêng trong một phòng khác không. Ban hội thẩm thảo luận một hồi rồi họ bảo không, ông phải trả lời trước mặt mọi người.
'Tôi sẽ trình bày dưới sự cưỡng chế’ ông nói. Họ hỏi ông loạt câu hỏi tương tự và ông trả lời y hệt như Valentina. Cuối cùng, ông nói, ‘Cảm ơn. Giờ tôi muốn các ông bà ghi chú rằng tôi nói ra những lời này dưới sự cưỡng chế.’
Ông đánh cuộc một phen trước vốn tiếng Anh bập bõm của cô ả.
Có tiếng ghi chép loạt xoạt nhưng không nhân viên nào ngẩng đầu lên hay nhìn ba tôi dù là một thoáng. Valentina nhướng mày một thoáng, miệng vẫn giữ nụ cười.
‘Cững chế nghĩa là gì?’ cô ả hỏi ông khi họ đợi xe lửa về nhà.
‘Có nghĩa là tình yêu’ ba tôi nói. ‘Tiếng Pháp nói thế đấy.’
‘À holubchik. Con bồ câu bé nhỏ của em’ Cô ả nhoẻn cười rạng rỡ và lại hôn nhẹ lên má ông.