← Quay lại trang sách

- 16 - Mẹ con đội mũ cơ mà

Bà Shura đã đỡ đẻ cho đứa con đầu của mẹ. Vera sinh ở Luhansk (Voroshilovgrad) vào tháng Ba năm 1937. Chị là một đứa bé đáng thương với tiếng khóc nức nở inh tai, cứ như thể chị sẽ ngừng thở bất cứ lúc nào. Đứa bé làm Nikolai điên đầu. Bà Shura thương Ludmilla nhưng chẳng ưa nổi Nikolai, ông chồng Đảng-viên-và-là-bạn-của-thống-chế-Voroshilov của bác cũng vậy. Cuộc sống ở nhà bà Shura trở nên căng thẳng. Những trận cãi vã bùng nổ, tiếng đóng cửa sầm sập, những giọng nói kích động, căn nhà gỗ trở thành một hộp âm thanh xóc óc. Sau vài tuần, Ludmilla, Nikolai và bé Vera chuyển đến sống ở nhà mẹ Ludmilla (giờ bà đã thành bà ngoại nên mọi người gọi bà là Baba Sonia). Đó là một căn hộ ba phòng trong một tòa nhà bê tông ở đầu bên kia thành phố.

Căn hộ chật như nêm cối. Nikolai, Ludmilla và đứa bé ở một phòng; Baba Sonia ở phòng thứ hai còn phòng thứ ba cho hai sinh viên thuê. Em trai và em gái của Ludmilla sống ở trường, khi nào về thì ở chung phòng với bà Sonia. Không có nước nóng - nhiều lúc còn không có cả nước lạnh nữa - và dù cơn đói đã qua, thức ăn vẫn rất thiếu thốn. Đứa bé mới ra đời vàng vọt và khóc lóc không ngừng. Bé bú chùn chụt nhưng Ludmilla bệnh và xanh xao, chẳng có bao nhiêu sữa cho con.

Baba Sonia thường đặt đứa bé khóc nhè lên đầu gối, rung rung chân dỗ dành nó rồi hát:

‘Bên ngoài Caucasus chúng ta đứng lên vì quyền lợi,

đứng lên vì quyền lợi của mình. Này!

Người Magyar đang tiến lên, đang tiến lên. Này!’

Bà Shura nói, ‘Lấy một quả táo, cắm đinh sắt vào, để qua đêm, nhổ đinh ra rồi ăn - làm vậy sẽ có đủ vitamin C và chất sắt.’

Nikolai không tìm được việc phù hợp ở Luhansk nên cứ thơ thẩn trong nhà làm thơ và làm quẩn chân mọi người. Tiếng la khóc không ngừng của đứa nhỏ làm anh phát khùng, đến phiên anh lại làm Ludmilla phát khùng. Mùa đông năm 1937, anh quay lại Kiev.

○○○

Cùng năm đó, cuối cùng Ludmilla cũng được nhận vào trường thú y ở Kiev. Có lẽ công việc lái cẩu đã mang lại may mắn cho cô, biến cô trở thành một người vô sản.

Nhưng cuộc đời đúng là một trò đùa tàn nhẫn. Với một đứa con mới sinh và ông chồng phải đi làm, cô không thể nào đi học được.

‘Đi đi! Đi đi!’ bà Shura nói. ‘Ta sẽ chăm sóc Verochka cho’

Ludmilla phải lựa chọn: chồng và trường thú y, hay đứa con gái bé bỏng. Bác Shura mua cho cô một cái áo choàng mới và vé xe lửa, tặng cô một chiếc mũ kiêu sa đính hoa lụa và mạng che. Ludmilla hôn tạm biệt mẹ và bác ở ga. Bé Verochka nức nở bíu chặt lấy cô. Họ phải níu bé lại để Ludmilla lên xe lửa.

‘Vậy đến khi nào chị mới gặp lại mẹ?’

‘Gần hai năm sau đó’ Vera đáp. ‘Mẹ ở Kiev miết tới lúc chiến tranh sắp bắt đầu. Sau đó mẹ quay về đón tôi. Kharkiv quá nguy hiểm. Mọi người đến Dashev sống với Baba Nadia. Ở làng quê thì an toàn hơn.’

‘Gặp lại mẹ chắc chị vui lắm.’

‘Tôi không nhận ra mẹ.’

Một ngày nọ, một phụ nữ nhếch nhác gầy gò đến trước cửa và ôm lấy Vera. Cô bé gào lên giãy giụa.

‘Verochka, con không nhận ra mẹ con sao?’ bà Shura hỏi.

‘Bà ta không phải mẹ con!’ Vera gào lớn. ‘Mẹ con đội mũ cơ mà.’

Chúng tôi vẫn còn giữ một bức ảnh mẹ đội chiếc mũ đó, mạng được vén ra sau và bà mỉm cười tươi trẻ. Ba tôi chắc đã chụp bức ảnh đó ngay sau khi mẹ đến Kiev. Tôi tìm thấy nó giữa một chồng ảnh cũ và thư từ trong chính cái ngăn kéo tôi từng thấy bức thư của viên bác sĩ tâm lý. Lá thư đó bị thất lạc từ lâu, nhưng những bức ảnh thì vẫn nằm trong một hộp giày cũ trong phòng khách, cùng những quả táo ngát mùi chín rữa, cái tủ đá đầy đồ ăn liền, chiếc máy photocopy xách tay nhỏ và chiếc máy hút bụi Hoover của người hiện đại. Chiếc máy được sản xuất ở nước ngoài, trong nước không có túi bụi thay thế nên giờ nằm bỏ xó với cái nắp mở toang, bụi rác toàn ra từ lõi hiện đại bên trong.

Căn phòng này vẫn là vùng tranh chấp. Khi Valentina ở nhà, cô ả ngồi đó, bật ti vi oang oang cùng máy sưởi điện (ba tôi đã ngắt không cho lò sưởi hoạt động để bảo vệ đống táo). Ba tôi không ưa tivi, phần lớn nội dung trên đó hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì với ông. Ông ngồi trong phòng ngủ và nghe nhạc cổ điển trên đài, hay đọc sách. Nhưng khi cô ả đi làm, ông thích ngồi ngoài phòng khách với đống táo, hình chụp và nhìn ra ngoài những cánh đồng được cày xới.

Chúng tôi ngồi bên nhau trong phòng khách vào một buổi chiều ẩm ướt tháng Năm, uống trà, ngắm mưa tạt vào cửa sổ và gió lung lay những cây tử đinh hương ngoài vườn. Tôi cố gắng chuyển chủ đề câu chuyện ra khỏi sự phát triển của động cơ phản lực ở Ukraina vào thập kỷ 30, và nói sang vấn đề ly dị.

‘Con biết ba không thích ly dị. Nhưng con cho rằng đó là cách duy nhất để ba được tự do’

Ông khựng lại rồi nhăn trán nhìn tôi. ‘Vì sao con lại nhắc đến ly dị hả Nadia? Thường thì chỉ có Vera mới hứng thú với ly dị mà. Thuốc lá và ly dị. Phì!’

Ông bạnh cằm, những ngón tay viêm khớp đan vào nhau đặt lên gối.

‘Vera và con đồng ý với nhau về chuyện này, ba à. Chúng con cho rằng Valentina sẽ tiếp tục hành hạ ba, chúng con lo cho sự an toàn của ba.’

‘Con có biết là khi Vera phát hiện ra thế nào là ly dị, nó đã cố thuyết phục Ludmilla ly dị ba không?’

‘Thật chứ?’ Đây là lần đầu tiên tôi nghe chuyện này. ‘Con cho rằng chị ấy không có ý như vậy. Con nít thì hay nói tùm lum mà.’

‘Nó muốn vậy đấy. Thật sự muốn vậy đấy. Cả cuộc đời nó luôn cố để Millochka và ba ly dị. Giờ thì ba và Valentina. Giờ tới phiên con nữa, Nadia.’

Ông ương bướng nhìn tôi. Tôi có thể thấy cuộc nói chuyện này sẽ chẳng đi tới đâu.

‘Nhưng ba à, ba sống với mẹ con hơn sáu mươi năm. Ba phải thấy là Valentina đâu có giống mẹ chút nào’

‘Rõ ràng là cô Valentina này thuộc về một thế hệ hoàn toàn khác. Không biết tí gì về lịch sử, kể cả lịch sử cận đại. Cô ta thuộc về cái thời đại mà người ta chỉ muốn chôn vùi quá khứ và bắt chước phương Tây. Để xây dựng nền kinh tế này, mọi người luôn phải mua những thứ mới. Nhu cầu mới phải được sinh ra cũng nhanh như ý tưởng cũ phải bị chôn vùi. Chính vì vậy cô ta luôn muốn mua những món đồ hiện đại. Đó không phải là lỗi của cô ta; đó là tâm lý thời hậu chiến mà.’

‘Nhưng ba à, cô ta không có lý do gì mà đối xử tệ với ba. Cô ta không thể hành hạ ba như vậy.’

‘Người ta luôn có thể tha thứ mọi chuyện cho một phụ nữ xinh đẹp.’

‘Ôi ba ơi! Làm ơn đi!’

Mắt kính của ông trễ xuống, nằm vẹo vọ một cách kỳ dị trên sống mũi. Mấy khuy áo sơ mi ở trên cùng không cài, để lộ những sợi lông trắng mọc lên quanh vết sẹo. Từ người ông tỏa ra mùi chua lòm lâu ngày không tắm rửa. Ông không giống Don Juan chút nào, nhưng không hề ý thức được điều đó.

‘Cái cô Valentina này, cô ta đẹp y như Milla, và cũng như Milla, cô ấy mạnh mẽ, nhưng trong bản tính tự nhiên lại có chút tàn nhẫn khác hẳn Ludmilla. Đó là đặc trưng của người Nga mà’

‘Ba à, làm sao ba có thể so sánh cô ta với mẹ được chứ? Làm sao ba có thể đặt tên cô ta và mẹ trong cùng một câu?’

Tôi không thể tha thứ cho sự phản bội của ông.

‘Ba làm mẹ khổ sở cả đời, và giờ thì ba chà đạp lên ký ức về mẹ. Vera nói đúng - lẽ ra mẹ phải ly dị ba từ lâu rồi mới phải.’

‘Khổ sở? Ký ức? Nadia, sao con lúc nào cũng muốn làm lớn chuyện thế? Millochka đã chết rồi. Buồn thật đấy, đương nhiên, nhưng chuyện đã là quá khứ rồi. Giờ là lúc phải bắt đầu cuộc sống mới, tình yêu mới.’

‘Ba, không phải con làm lớn chuyện, mà là ba đấy. Cả cuộc đời tụi con, cả cuộc đời mẹ, chúng con đã phải sống với những ý tưởng kỳ quặc và những trò hề của ba. Ba có nhớ mẹ đã bực thế nào khi ba mời tất cả đám Ukraina tới sống với chúng ta không? Ba có nhớ lần ba mua chiếc mô tô Norton mới trong khi mẹ cần máy giặt không? Ba có nhớ lần ba rời nhà và muốn bắt tàu lửa về Nga không?’

‘Nhưng lần đó không phải vì Millochka. Mà là vì con. Lúc đó con là một kẻ điên cuồng theo đuôi Trotsky.’

‘Con không theo đuôi Trotsky. Và nếu có đi nữa thì hồi đó con chỉ mới mười lăm tuổi thôi. Lúc đó ba đã là người lớn rồi mà.’

Đúng vậy, chính là vì tôi mà ông đòi bỏ nhà bắt tàu trở lại Nga. Ông xếp đồ vào chiếc va li bìa cứng màu nâu - chính là chiếc va li ông từng xách theo khi rời Ukraina - đứng trên sân ga ở trạm Witney. Tôi có thể tưởng tượng cảnh ông đi qua đi lại, lẩm bẩm một mình và thỉnh thoảng lại nôn nóng nhìn đồng hồ.

Mẹ phải tới đó năn nỉ ông.

‘Nikolai! Kolya! Kolyusha! về nhà đi nào! Kolka, anh đi đâu vậy?’

'Tôi đợi xe lửa đi Nga!’ Tôi tưởng tượng cái ngẩng đầu khoa trương của ba, đôi mắt tóe lửa của ba.

Đúng vậy, tất cả là lỗi của tôi. Tôi cùng bạn là Cathy chạy xuống căn cứ không quân Greenham Common năm 1962. (Tôi còn xuống một lần nữa năm 1981 nhưng đó là chuyện khác.) Chúng tôi tới đó để biểu tình phản đối kế hoạch triển khai bom khinh khí ở căn cứ hạt nhân nên bị bỏ tù. Chúng tôi mặc quần ống tuýp, đầu thắt khăn đủ màu, ngồi trên con đường mới được xây dựng. Tôi đang đọc cuốn De Bello Gallico[link=#id7]*[/link] của Julius Caesar (trong chương trình GCE)[link=#id8]*[/link] thì cảnh sát tới lôi từng người một đi. Đúng là tôi có thách thức chính quyền qua hành vi chống đối phi bạo lực, nhưng tôi vẫn là con gái ba tôi, và tôi đang làm bài tập tiếng Latin đấy chứ.

Có ai đó gảy đàn ghi ta và mọi người bắt đầu hát:

‘Bạn có nghe tiếng sấm bom khinh khí,

Nghe như tiếng vỡ òa diệt vong?

Chúng xé toang bầu trời,

Bụi phóng xạ rơi xuống đất chất thành lăng mộ’

Đúng vậy, tôi có thể nghe tiếng bom khinh khí nổ. Tôi có thể nhìn thấy bụi phóng xạ lấp lánh trong không khí, tôi có thể cảm nhận được màn mưa kỳ dị đang rơi xuống. Tôi thực sự tin rằng mình sẽ không thể sống mà lớn lên được nếu không tống khứ bom khinh khí đi. Nhưng tôi vẫn chơi trò nước đôi và tham gia các kỳ thi GCE.

Tất cả những người khác đều lớn hơn Cathy và tôi. Vài người để tóc dài và đi chân trần, mặc quần bò bạc màu và đeo kính đen. Những người khác ăn vận gọn gàng theo kiểu tín đồ phái giáo hữu cùng với giày chắc bền và áo len đan. Họ vẫn tiếp tục cất cao tiếng hát khi bị cảnh sát xốc tay nhấc chân tống vào xe tải chở hàng (có vẻ họ đã hết xe tù rồi). Cathy và tôi không hát - chúng tôi không muốn bị coi là ngớ ngẩn.

Một phòng xử án tạm bợ được mở ra ở trường tiểu học địa phương. Chúng tôi ngồi trong những chiếc ghế nhỏ xíu, lần lượt được gọi lên trước ghế dài. Mỗi người đều phát biểu về sự tồi tệ của chiến tranh và bị phạt 3 bảng, cùng với 2 bảng lệ phí xét xử. Khi đến lượt tôi, tôi không nghĩ ra thứ gì mới mẻ để nói nữa nên chỉ bị phạt 3 bảng (đỡ quá!) Tôi nói dối về số tuổi của mình vì không muốn ba mẹ tôi biết, nhưng cuối cùng họ cũng biết.

‘Kolya’ mẹ tôi van vỉ, ‘con bé chỉ là một đứa nhỏ ngốc nghếch thôi mà. Mình về nhà đi anh’

Ba tôi không nói gì nhưng vẫn nhìn chằm chằm dọc đường ray. Chuyến tàu tới sẽ đến trong bốn mươi phút nữa, đi tới Eynsham và Oxford chứ không phải đến Nga.

‘Kokyusha, đường đến Nga xa lắm. Nghe này, mình về nhà ăn gì trước đi đã. Em vừa nấu món xúp củ cải ngon lắm. Và món kotletki nữa - món kotletki anh thích nhất, với rau bina và đậu ngoài vườn cùng khoai tây nhỏ. về nhà ăn no bụng đã, rồi anh hẵng trở về Nga’

Cứ như vậy, vẫn còn lẩm bẩm tức giận, ông để mình bị dắt dọc theo con đường bùn lầy giữa hai hàng bụi gai và tầm ma, quay về căn nhà đá rửa nơi chúng tôi sống. Ông miễn cưỡng vục đầu xuống bát xúp bốc khói. Sau đó mẹ dỗ ông lên giường. Vậy là sau rốt ông không bỏ nhà ra đi nữa.

Thay vào đó, tôi bỏ đi. Tôi bỏ đến ở nhà Cathy. Gia đình Cathy sống trong một ngôi nhà thấp và dài bằng đá Cotswold ở White Oak Green. Căn nhà đầy sách, mèo và mạng nhện. Ba mẹ Cathy là trí thức cánh tả. Họ không cấm Cathy biểu tình mà còn khuyến khích bạn ấy. Họ nói về những chuyện lớn lao như nước Anh có nên gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu không hay ai tạo ra Chúa trời. Nhưng căn nhà lạnh lẽo, đồ ăn kỳ cục, ban đêm ngủ cứ bị mèo nhảy lên người. Sau vài ngày, mẹ cũng đến dỗ tôi về nhà.

Nhiều năm sau đó, tôi vẫn còn nhớ mùi nắng chiếu lên lớp nhựa đường mới trải ở Greenham Common và mùi ẩm mốc trong phòng ngủ của Cathy. Chỉ có hình bóng của ba tôi là mờ nhạt, cứ như một thứ gì đó mơ hồ nhưng có thực đã bị xóa đi, chỉ còn để lại dáng vẻ giận dữ. Ông ta là ai, người đàn ông mà tôi biết cả đời nhưng không hề hiểu chút nào?

‘Nhưng tất cả là quá khứ rồi, Nadia. Vì sao con lại có thiên kiến bảo thủ đến vậy với lịch sử cá nhân vậy?’

‘Bởi vì nó quan trọng, nó định nghĩa... nó giúp chúng ta hiểu... bởi vì chúng ta có thể biết được... Ô, con không biết.’