- 22 - Công dân gương mẫu
Sau khi đến Anh năm 1946, ba mẹ tôi là những công dân gương mẫu. Họ chưa hề phạm pháp - chưa hề dầu chỉ một lần. Họ quá sợ hãi. Họ run rẩy khi phải điền đơn từ có những từ nhập nhằng khó hiểu: nếu họ trả lời sai thì sao? Họ không dám xin trợ cấp: lỡ bị điều tra thì sao? Họ sợ không dám xin hộ chiếu: lỡ họ không được phép quay vào Anh lại thì sao? Những kẻ làm chướng mắt chính quyền có thể bị tống lên một chuyến tàu dài không có đường trở lại.
Thế nên hãy hình dung ba tôi rối lên đến thế mà khi nhận được giấy gọi ra tòa vì không trả Thuế Vận Hành Xe. Chiếc xe thổ tả được tìm thấy đậu ở ven đường mà không dán nhãn thuế cầu đường. Ông là người đứng tên chiếc xe.
‘Con thấy đấy, vì Valentina mà lần đầu tiên trong đời ba trở thành tội phạm.’
‘Mọi chuyện sẽ ổn mà ba. Con chắc đây chỉ là chuyện hiểu lầm thôi.’
‘Không không. Con chẳng hiểu gì cả. Nhiều người đã chết vì bị hiểu lầm đấy.’
‘Ở Peterborough này thì không như vậy đâu’
Tôi gọi điện cho Cơ quan Đăng ký xe và giải thích trường hợp của ba tôi. Tôi kể với người ở đầu bên kia rằng ba tôi chưa bao giờ lái chiếc xe đó và không còn đủ sức để lái nữa. Tôi đã chuẩn bị tinh thần gặp một quan chức lạnh lùng, nhưng giọng nói trong điện thoại - giọng phụ nữ đứng tuổi, âm điệu vùng Yorkshire - lại rất dịu dàng đầy thông cảm. Đột nhiên không hiểu vì sao tôi òa lên khóc và kể hết câu chuyện cho bà nghe: bộ ngực bơm căng, đôi găng tay cao su màu vàng, giấy phép lái xe vô giá trị.
‘Ôi trời, thật không ngờ!’ giọng nói dịu dàng vỗ về. ‘Tội nghiệp ông cụ! Bảo ông ấy đừng lo lắng. Tôi sẽ gửi cho ông ấy một lá đơn để điền vào. Chỉ cần ghi rõ tên và địa chỉ của cô ả là đủ.’
‘Nhưng đó chính là vấn đề đấy. Ba tôi không biết địa chỉ của cô ả. Chúng tôi liên lạc với cô ả thông qua luật sư’ ‘Ô, vậy thì cứ ghi địa chỉ của luật sư. Thế cũng được’
Tôi điền vào đơn cho ba tôi, rồi ông ký tên.
Vài ngày sau đó, ba lại gọi điện cho tôi. Sau một đêm, chiếc xe thổ tả lại xuất hiện trên lối vào. Hai bánh trước đè lên cỏ, kế bên chiếc Roller rỉ sét. Bánh sau bị xẹp, đèn xe bên phía người lái bị vỡ một góc, cửa xe bên phía người lái bị oằn cong và được buộc chặt bằng dây vào sườn xe. Do đó, tài xế phải leo lên xe qua cửa bên kia rồi trèo qua cần số. Không có nhãn thuế. Trong lúc đó, chiếc Lada lại biến mất khỏi ga ra.
‘Chuyện xảy ra thật đáng ngờ’ ba tôi nói.
Giờ có đến hai chiếc xe ở vườn trước, chúng đậu nghênh ngang khiến ba tôi phải đi sát vào hàng giậu gai để vào nhà. Những bụi gai móc vào áo khoác của ông, đôi khi còn cào xước mặt và tay ông.
‘Thật vô lý’ tôi nói với ba. ‘Cô ả phải đem cái xe của ả đi.’
Tôi gọi điện cho cô Carter, cô bèn viết thư cho luật sư của Valentina. Nhưng chẳng có gì thay đổi cả. Tôi gọi điện cho một người bán xe cũ, đề nghị bán cả hai chiếc với giá khá hời. Ông ta rất quan tâm đến chiếc Roller nhưng co vòi ngay khi biết xe không có giấy tờ. Tôi thậm chí chưa nói đến chuyện không có chìa khóa.
‘Nhưng ông không thể cứ thế mà kéo chúng đi, rồi lấy các linh kiện hay sao?’
‘Cần phải có giấy đăng ký xe, dù có tháo rời để lấy linh kiện.’
Luật sư của Valentina không trả lời thư của chúng tôi nữa. Làm sao chúng tôi thuyết phục Valentina chuyển chiếc xe của ả đi khi không biết ả đang ở đâu? Vera đề nghị nhờ Justin, người đàn ông râu ria lởm chởm từng giao giấy đề nghị ly dị cho Valentina. Tôi chưa thuê thám tử tư lần nào. Ý tưởng này có vẻ khá thú vị - y hệt như trong các phim trinh thám.
‘Cô em thân mến, cô sẽ thấy anh ta khá thú vị đấy’ Vera nói.
‘Nhưng liệu cô ả có nhận ra anh ta không? Ả sẽ nhận ra chiếc BMW đen đậu ngoài cửa thì sao?’
‘Ô, chắc là anh ta sẽ theo dõi một cách bí mật mà. Có lẽ anh ta phải có một chiếc Ford Escort cũ để dùng trong những dịp này.’
Tôi liên lạc với Justin qua cô Carter và để lại một tin nhắn lan man trên máy trả lời tự động của anh ta, vì thực sự tôi chẳng biết mình cần nói gì. Anh ta gọi lại cho tôi vài phút sau đó. Giọng anh ta trầm và tự tin, với cách phát âm còn mang dấu ấn của vùng Fenland mà anh ta đang cố khắc phục. Anh ta tin chắc là có thể giúp tôi. Anh ta có người quen trong giới cảnh sát và hội đồng thành phố. Anh ta ghi lại mọi chi tiết tôi cung cấp, tên và mọi dạng biến thể của tên cô ả, ngày sinh (nếu cô ả không bịa ra một ngày sinh khác), số an sinh xã hội (tôi tìm thấy trong xấp giấy tờ cất ở cốp xe), tên tuổi của Stanislav, tất cả những gì tôi biết về Bob Tumer và Eric Pike. Tuy nhiên, anh ta có vẻ quan tâm nhất đến tiền thù lao. Tôi muốn trả theo kết quả, hay theo ngày? Tôi chọn trả theo kết quả. Chừng đó tiền cho địa chỉ, chừng đó tiền cho chi tiết công việc ả làm, sẽ trả thêm cho những bằng chứng ngoại tình có thể đưa ra trước tòa. Đặt điện thoại xuống, tôi cảm thấy vui và hứng khởi. Nếu Justin có thể tìm ra những thông tin này thì trả chừng ấy không đắt chút nào.
Trong lúc tôi bận bịu tìm cách tống khứ chiếc Rolls Royce, ba tôi lại đang tán dương một loại máy móc khác.
Giai đoạn cuối của chiến tranh là thời điểm có nhiều tiến bộ và phát triển vượt bậc trong lịch sử của máy kéo, khi lưỡi kiếm một lần nữa được ghè thành lưỡi cày, và thế giới đói khổ bắt đầu suy nghĩ làm sao kiếm miếng ăn. Bởi chúng ta biết rõ một nền nông nghiệp phát triển là hy vọng duy nhất cho loài người, trong đó, máy kéo đóng một vai trò trung tâm.
Người Mỹ tham gia vào cuộc chiến chỉ sau khi ngành công nghiệp và dân số của cả châu Âu đã được thử thách đến mức gần như bị hủy diệt. Máy kéo Mỹ trước đây thua kém về mặt kỹ thuật so với máy kéo châu Âu, giờ bắt đầu chiếm lĩnh sân khấu.
Đứng hàng đầu trong số đó là sản phẩm của John Deere.
John Deere vốn là một thợ rèn ở Vermont, vóc người cao lớn vạm vỡ như bò mộng. Năm 1837, ông tự tay chế tạo lưỡi cày thép, hết sức thích hợp để khai phá những vùng đất hoang sơ trên thảo nguyên Mỹ. Do vậy, có thể nói rằng máy kéo của Deere, chứ không phải đám cao bồi ngớ ngẩn được ca tụng trong phim ảnh thời hậu chiến, mới là nhân vật khai phá miền Tây nước Mỹ.
Tài năng lớn nhất của ông không phải là về mặt kỹ thuật mà là về mặt kinh doanh, bởi bằng việc thỏa thuận hợp đồng và hỗ trợ tài chính cho người mua, ông đã biến phân xưởng thô sơ ban đầu của mình thành một trong những công ty lớn nhất nước Mỹ vào năm 1886 khi ông qua đời.
Mẫu hai xi lanh và động cơ diesel 376 inch khối nổi tiếng của John Deere vừa tiết kiệm nhiên liệu vừa dễ dàng điều khiển. Nhưng đến năm 1953, mẫu G mạnh mẽ mới được xuất khẩu ra toàn thế giới, góp phần không nhỏ tạo nên sự thống trị về kinh tế của nước Mỹ thời hậu chiến.
Một buổi chiều đầu tháng Mười, ba tôi tạm dừng công việc và đang ngủ lơ mơ trên chiếc ghế bành trong phòng khách thì chợt nghe thấy trong giấc mơ một tiếng động lạ. Đó là tiếng động cơ vo vo khe khẽ - một tiếng động rất êm tai mà ông nói làm ông nhớ lại tiếng chiếc Francis Bamett cũ của mình chật vật khởi động vào một sớm tinh sương. Ông nằm đó, nửa mơ nửa tỉnh, lắng nghe tiếng vo vo, nhớ tới chiếc Francis Bamett, những làn đường Sussex lộng gió, gió thốc vào tóc, những hàng giậu trổ hoa thơm ngát, mùi hương của tự do. Ông lắng nghe một cách chăm chú và vui sướng, nhưng rồi ông lại nghe thấy một tiếng động khác, tiếng động khẽ đến mức gần như không nghe thấy được, tiếng rì rầm yếu ớt - tiếng người nói chuyện thì thầm.
Lúc này ông hoàn toàn bừng tỉnh. Có ai đó đang ở trong phòng. Nằm yên không nhúc nhích, ông hé một mắt ra. Hai bóng người đang đi tới gần cửa sổ. Khi họ lọt vào tầm mắt, ông nhận ra ngay: Valentina và bà Zadchuk. Ông vội nhắm mắt lại. Ông nghe tiếng họ di chuyển, tiếng thì thầm, và một thứ tiếng khác - tiếng giấy sột soạt. Ông mở con mắt bên kia ra. Valentina đang sục sạo tìm kiếm trong ngăn kéo tủ áo nơi ông để thư từ và giấy tờ. Thỉnh thoảng ả rút ra một tờ giấy rồi đưa cho bà Zadchuk. Giờ thì ông nhận ra tiếng động cơ vo vo là gì rồi. Đó không phải là tiếng của chiếc Francis Barnett, đó là tiếng chiếc máy photocopy xách tay nhỏ.
Ông cứng người lại. Ông không thể ngăn nổi mình nữa. Ông mở to hai mắt và thấy mình đang nhìn thẳng vào đôi mắt kẻ-chì-nâu-kiểu-Cleopatra của Valentina.
‘Ha!’ ả nói. ‘Cái xác chết sống dậy rồi, Margaritka’
Bà Zadchuk ừ hữ rồi bỏ thêm giấy vào máy phô tô. Nó lại kêu vo vo.
Valentina cúi xuống, kề mặt sát vào mặt ba tôi.
‘Ông tưởng ông thông minh. Ông sẽ chết sớm thôi, ông Kỹ sư Thông minh.’
Ba tôi rú lên một tiếng, cứ như là ‘bị thúc vào mông’, sau này ông kể lại như vậy.
‘Ông đã giống xác chết rồi - ông sẽ là cái xác chết sớm thôi. Đồ chó chết. Đồ bộ xương biết đi’
Cô ả chồm tới, hai tay để hai bên đầu ông mà ghìm chặt ông xuống ghế, trong lúc bà Zadchuk tiếp tục phô tô thư từ của cô Carter. Khi xong việc, bà ta vơ đống giấy tờ lại, tháo dây cắm chiếc máy phô tô ra, rồi tống hết vào một chiếc túi xách mua hàng Tesco lớn.
‘Đi thôi Valenka. Chúng ta có thứ mình cần rồi. Bỏ mặc cái xác hôi rình này đi.’
Valentina dừng lại trước cửa, gửi cho ông một cái hôn gió mỉa mai.
‘Đồ sống như chết rồi. Đồ trốn khỏi nghĩa địa.’