- 23 - Người trốn khỏi nghĩa địa
Không biết Valentina biết sự thật hay chỉ là cao hứng đoán mò, nhưng ba tôi quả thật đã trốn thoát từ nghĩa địa.
Chuyện xảy ra vào mùa hè năm 1941 khi quân Đức xông vào Ukraina và Hồng quân rút lui về phía Đông, cầu đường và đồng ruộng bị đốt cháy. Ba tôi lúc đó đang ở Kiev với đơn vị. Ông là một người lính miễn cưỡng. Họ ấn lưỡi lê vào tay ông và bảo ông phải chiến đấu cho đất mẹ, nhưng ông không muốn chiến đấu - dù là cho đất mẹ, cho Liên bang Xô viết, hay cho bất kỳ ai. Ông muốn ngồi trước bàn làm việc với cây thước lô ga, với xấp giấy trắng và tìm lời giải cho phương trình lực kéo và đẩy. Nhưng không có thì giờ để làm những chuyện vô bổ như vậy - không có thì giờ cho bất cứ chuyện gì ngoại trừ đâm và chạy, bắn và chạy, nấp và chạy, chạy và chạy. Quân đội chạy về phía Đông, xuyên qua những cánh đồng lúa mì vàng rực sắp thu hoạch của Poltava, dưới bầu trời xanh ngăn ngắt, rồi cuối cùng tập họp lại ở Stalingrad. Chỉ lá cờ mà họ đi theo là không mang màu xanh vàng: nó mang màu đỏ vàng.
Có lẽ đó là lý do, hoặc có lẽ ông đã chịu quá đủ, nhưng ba tôi không đi theo họ. Ông lẩn khỏi đơn vị và tìm chỗ ẩn nấp. Tại nghĩa trang cũ của người Do Thái trong một quận khu im ắng rợp bóng cây của thành phố, ông chui vào một nấm mộ bị vỡ, chặn những tảng đá lớn bên trên, và ẩn mình trong mộ, kề cận người chết. Náu mình trong bóng tối, thỉnh thoảng ông lại nghe thấy tiếng quyến thuộc người Do Thái than khóc ở phía trên. Ông ở đó, trong sự câm lặng lạnh lẽo và chán nản gần một tháng trời, sống nhờ vào số thức ăn mang theo, rồi khi hết thức ăn, ông ăn giòi, ốc sên và ếch cho qua ngày. Ông uống nước từ những giọt mưa thấm vào lòng đất chảy nhỏ giọt xuống, và suy ngẫm tình thế cận kề cái chết của mình, tập cho mắt mình quen với bóng tối.
Chỉ có điều dưới đó không hoàn toàn tăm tối: mỗi ngày ánh nắng vẫn lọt qua khe hở giữa những tảng đá, nếu áp mắt vào khe hở ấy, ông có thể nhìn thấy thế giới bên ngoài. Ông có thể nhìn thấy những bia mộ phủ đầy hoa hồng, xa hơn nữa là cây anh đào lúc lỉu trái chín. Ông bị ám ảnh bởi cái cây đó. Cả ngày ông ngắm nghía những quả anh đào chín mọng trong khi phải đào sâu xuống lớp đất đen để moi giòi rồi bọc trong lá cây hay lá cỏ cho dễ ăn hơn.
Đến một ngày - một buổi tới - ông không chịu đựng được nữa. Khi hoàng hôn buông xuống, ông bò ra khỏi chỗ ẩn nấp, leo lên cây, hái hàng nắm quả anh đào, rồi nhét hết vào miệng. Thêm vài quả nữa, rồi lại vài quả nữa, nước quả chảy lem nhem xuống cằm. Ông nhổ hột tứ tung, quần áo dính đầy nước quả, đỏ rực như máu. Dường như ông không bao giờ thỏa mãn được cơn thèm khát. Sau đó, ông hái đầy trái bỏ vào túi và mũ, rồi len lén quay lại huyệt mộ.
Nhưng ai đó đã nhìn thấy ông. Ai đó đã đi trình báo. Sáng hôm sau, một đám lính xộc tới, kéo ông lên và bắt ông vì nghi ngờ ông là gián điệp. Khi bị chúng tóm lấy và đẩy vào xe, hàng đống anh đào tống vào bụng cùng với nỗi khiếp hãi khi bị bắt giữ đã làm ông vãi phần ra quần đầy hổ thẹn.
Chúng đưa ông tới một bệnh viện tâm thần cũ ven thành phố vốn là nơi chúng đặt bộ chỉ huy và giam ông trong một căn phòng trống trơn với cửa sổ chấn song sắt, ông phải ngồi trong mùi phân của mình và chờ đợi xét hỏi. Ba tôi không phải là một người dũng cảm, càng không phải là anh hùng. Ông biết người Đức đối xử tàn nhẫn thế nào với tù nhân Ukraina. Tôi và bạn sẽ làm gì trong hoàn cảnh đó? Ba tôi dùng tay đập bể cửa kính, rồi dùng một mảnh kính vỡ cứa vào cổ họng.
Lính Đức không tha cho ba dễ dàng như vậy. Chúng gọi bác sĩ tới, một bác sĩ tâm lý lớn tuổi người Ukraina ở lại bệnh viện để chăm sóc cho bệnh nhân. Ông ấy chưa hề khâu vết thương nào kể từ ngày học trường y. Ông ấy dùng chỉ khâu bình thường khâu lại vết thương bằng những mũi kim vụng về, để lại trên cổ ba một vết sẹo sần sùi làm ba ho mỗi lần ăn bất cứ thứ gì về sau. Nhưng dù sao thì ông ấy cũng cứu mạng ba tôi. Ông ấy nói với bọn Đức là dây thanh quản bị hủy hoại không thể chữa lại được, rằng người đàn ông này không thể trả lời thẩm vấn, và rằng bất luận thế nào ông ta cũng không phải là điệp viên mà chỉ là một người điên đáng thương - một bệnh nhân tâm thần từng tìm cách tự hủy hoại mình trước đấy. Nhờ vậy mà bọn Đức tha cho ba.
Ba ở lại trong bệnh viện, được vị bác sĩ tâm lý lớn tuổi chăm sóc. Ba đánh cờ, thảo luận về triết học và khoa học với ông ấy hằng ngày. Mùa hè qua đi, bọn Đức cũng tiến quân, đuổi theo Hồng quân về phía Đông. Khi thấy tình hình tạm ổn, ông lẩn đi, vượt qua hàng rào quân Đức, hướng về phía Tây, về thẳng Dashev để gặp lại gia đình.
Nhưng mẹ và Vera đã đi rồi. Hai tuần trước khi ba tôi về, quân Đức đã chiếm đóng ngôi làng, bắt tất cả thanh niên khỏe mạnh lên xe lửa, chuyển họ đến Đức để làm việc trong các xí nghiệp sản xuất đạn dược. Bọn họ bị gọi là ostarbeiter. các công nhân đến từ phía Đông. Bọn chúng không muốn cho Vera theo - chị lúc đó chỉ mới năm tuổi - nhưng mẹ tôi đã làm lớn chuyện đến mức bọn chúng đành dẫn chị theo. Ba tôi ở lại Dashev một thời gian đủ để hồi phục sức khỏe, sau đó ông lên tàu theo họ đi về phía Tây.
‘Không, không’ Vera nói. ‘Chuyện đâu phải xảy ra như vậy. Đó là cây mận chứ không phải anh đào. Hơn nữa, chính NKVD đã bắt ông chứ không phải bọn Đức. Bọn Đức sau đó mới đến cơ. Khi ba quay lại Dashev, bọn tôi vẫn còn ở đó. Tôi còn nhớ cảnh ba quay lại, cổ họng có một vết sẹo khủng khiếp. Bà Nadia chăm sóc cho ba. Ông chẳng ăn được gì ngoài xúp.’
‘Nhưng chính ba kể với em...’
‘Không, ba đi về phía Tây trước, nhảy xe đến Đức. Khi ông nói với chúng rằng ông là kỹ sư, bọn chúng bèn thuê ông. Sau đó ông đón mẹ và tôi tới ở cùng.’
Đó là câu chuyện gia đình tôi rời Ukraina như thế nào - hai phiên bản khác biệt: chuyện của ba và chuyện của mẹ.
‘Vậy ba là dân di cư kinh tế, chứ không phải dân tị nạn à?’
‘Nadia, làm ơn đi. Sao bây giờ cô còn hỏi mấy câu ngớ ngẩn thế? Chúng ta nên tập trung sức lực vào vụ ly hôn này - chứ không phải những lời ta thán không dứt về quá khứ. Không có gì để nói. Không có gì để học tập. Chuyện đã qua rồi coi như xong.’
Giọng chị hơi nghẹn lại, dường như tôi đã nói động đến một vấn đề nhạy cảm. Lẽ nào tôi đã làm chị tổn thương?
‘Xin lỗi chị, Vera.’ (Tôi thực lòng xin lỗi.)
Giờ tôi chợt nhận ra: Bà Chị Lớn không chỉ là một cái vỏ rỗng tuếch. Người chị thực sự của tôi là một người hoàn toàn khác, một người tôi chỉ mới bắt đầu hiểu được.
‘Bây giờ.’ Giọng chị bình tĩnh trở lại. Chị bắt đầu nắm quyền điều khiển. ‘Cô nói là Valentina đã phô tô tất cả giấy tờ của ba. Chỉ có một lý do cho chuyện này thôi - cô ả muốn dùng nó cho vụ ly dị. Cô phải nói cho Laura Carter biết ngay.’
‘Vâng, em sẽ làm vậy.’
Cô Carter bừng bừng lửa giận khi nghe tôi kể về vụ phô tô giấy tờ.
‘Có những luật sư chẳng khá hơn đám thân chủ khốn khiếp của mình bao nhiêu. Nếu họ đưa những giấy tờ này ra trước tòa, chúng ta sẽ phản đối. Chị có nhận được tin gì từ viên thám tử tư không?’
Justin thực hiện đúng lời giao ước. Khoảng một tuần sau đó, anh ta gọi cho tôi nói là đã lần ra Valentina: cô ả và Stanislav đang sống trong hai căn phòng phía trên Khách sạn Hoàng gia. Ả đứng quầy rượu, còn Stanislav rửa ly cốc. (Tôi cũng đoán được như vậy.) Ả cũng xin trợ cấp an sinh xã hội, và xin trợ cấp nhà ở được một căn nhà liền kế ở đường Norwell rồi cho một thực tập sinh khoa thính học người Ghana, khách quen của Khách sạn Hoàng gia, thuê lại. Ả có người tình nào không? Justin không chắc. Anh ta để ý thấy có một chiếc Volvo xanh thẫm đậu bên ngoài vài lần, nhưng không đậu qua đêm. Eric Pike là một khách hàng lâu năm của Khách sạn Hoàng gia. Không có bằng cớ nào có thể dùng được trước tòa.
Tôi cảm ơn Justin rối rít rồi gửi séc cho anh ta qua bưu điện.
Tôi gọi cho Vera nhưng máy bận. Trong lúc chờ đợi, tôi quyết định gọi cho Chris Tideswell ở trạm cảnh sát Spalding. Tôi kể cho cô ta nghe vụ rút đơn kháng cáo và chuyện Valentina cùng con trai đang ở tại Khách sạn Hoàng gia, nơi cả hai đều đang làm việc bất hợp pháp.
‘Hừm’ Chris Tideswell nói với giọng trẻ trung hoạt bát. ‘Chị đúng là một thám tử thực sự. Lẽ ra chị nên gia nhập ngành cảnh sát mới đúng. Tôi sẽ xem xem có làm được gì không.’
Vera mừng rỡ trước tin tức của Justin.
‘Cô thấy chưa, nó khẳng định những gì tôi nghĩ. Cô ả là một tên tội phạm. Trấn lột ba chưa đủ, ả còn moi tiền của đất nước chúng ta nữa.’ (Đất nước chúng ta?) ‘Còn cái tên Ghana này thì sao? Chắc hắn đại loại cũng là dân tị nạn thôi.’
‘Justin nói hắn là thực tập sinh thính học ở bệnh viện.’
‘Ô, thì hắn vẫn có thể là dân tị nạn mà, phải không?’
‘Chúng ta chỉ biết là ả cho hắn thuê nhà. Có lẽ ả cũng moi tiền của hắn nữa.’
Vera và tôi cách nhau mười tuổi - mười năm với nhóm Beatles, các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam, cuộc nổi dậy của sinh viên năm 1968, và sự ra đời của phong trào đòi bình quyền cho phụ nữ, mười năm đã dạy tôi coi mọi phụ nữ là chị em của mình - mọi phụ nữ ngoại trừ chị ruột của tôi, thế đấy.
‘Và có thể hắn cũng cho đám dân tị nạn khác thuê phòng.’ (Chị tôi không chịu để yên.) ‘Khi bước vào thế giới u ám của bọn tội phạm, cô sẽ phát hiện ra tầng tầng lớp lớp những trò lừa phỉnh, và cô phải vừa khôn khéo vừa kiên nhẫn mới khám phá ra được sự thật.’
‘Vera à, hắn ta là thực tập sinh khoa thính học. Hắn làm việc với những người điếc.’
‘Chẳng có ý nghĩa gì cả, Nadia ạ.’
Có một lần, cách đây không lâu, thái độ của Bà Chị Lớn đã khiến tôi nổi điên lên để bảo vệ lẽ phải, nhưng giờ tôi nhìn sự việc theo khía cạnh lịch sử, và tôi mỉm cười với mình vẻ bề trên.
‘Khi chúng ta mới tới đây, Vera, mọi người có thể nói y hệt như vậy về chúng ta - rằng chúng ta moi tiền của chính phủ, ngốn ngấu nước cam miễn phí, béo phì nhờ dầu gan cá của NHS.[link=#id12]*[/link] Nhưng họ không nói vậy. Ai cũng đối xử tốt với chúng ta cả’
‘Nhưng đó là chuyện khác. Chúng ta khác họ.’ (Dĩ nhiên rồi, ví dụ như chúng ta da trắng, tôi có thể nói vậy nhưng quyết định không thốt ra miệng.) ‘Chúng ta làm việc chăm chỉ và biết thân biết phận. Chúng ta học tiếng và hội nhập. Chúng ta không bao giờ xin trợ cấp. Chúng ta không bao giờ phạm luật.’
‘Em phạm luật. Em hút ma túy. Em bị bắt ở Greenham Common. Ba bực đến mức muốn bắt tàu quay lại Nga.’
‘Nhưng đó đúng là điều tôi muốn nói đấy, Nadia. Cô và đám bạn cánh tả của cô - các người chưa bao giờ biết ơn những gì nước Anh mang lại: ổn định, trật tự, luật pháp. Nếu cô và đám người của cô thắng lợi, đất nước này sẽ hệt như Nga - đâu đâu cũng xếp hàng mua bánh mì, người ta ăn cắp để rồi bị chặt tay.’
‘Đó là ở Afghanistan. Chặt tay là theo luật mà’
Cả hai chúng tôi đều cao giọng. Lại sắp sa đà cãi nhau nữa rồi.
‘Sao cũng được. Cô hiểu ý tôi rồi đấy’ chị nói vẻ khinh miệt.
‘Điều em đánh giá cao khi lớn lên ở đất nước Anh là lòng khoan dung, chủ nghĩa tự do, sự tử tế mà em cảm nhận được mỗi ngày.’ (Tôi vẫy vẫy ngón tay để nhấn mạnh, dẫu chị không nhìn thấy.) ‘Cái cách người Anh luôn giúp đỡ những kẻ bị thua thiệt’
‘Cô lại không phân biệt được người bị thua thiệt và quân kẻ cướp rồi, Nadia. Chúng ta nghèo, nhưng chúng ta không bao giờ trộm cắp. Người Anh tin vào sự công bằng. Trung thực. Như trò cricket đấy’ (Chị biết gì về cricket chứ?) ‘Họ chơi theo luật. Họ có ý thức tự giác về kỷ luật và trật tự’
‘Không không. Họ thuộc loại bất tuân luật pháp. Họ thích nhìn cậu bé tí hon giơ tay thách thức thế giới. Họ thích nhìn bọn người quyền lực bị trừng phạt’
‘Ngược lại, họ bảo vệ hệ thống giai cấp tuyệt đối trong đó ai cũng biết vị trí thực sự của mình’
Thấy chưa, chúng tôi lớn lên ở cùng một căn nhà, nhưng sống trong hai quốc gia khác hẳn nhau.
‘Họ đùa cợt trước các nhà cầm quyền’
‘Nhưng họ thích những nhà cầm quyền sắt đá’
Nếu Vera nhắc tới bà Thatcher, tôi sẽ cúp máy. Im lặng một thoáng, cả hai đều cân nhắc xem nên làm gì. Tôi cố gợi lại những kỷ niệm chung của hai chị em.
‘Vera, chị còn nhớ người phụ nữ trên xe buýt không? Người phụ nữ mặc áo choàng lông ấy?’
‘Người phụ nữ nào? Xe buýt nào? Cô đang nói cái gì thế?’
Đương nhiên là chị còn nhớ. Chị vẫn chưa quên mùi dầu xe, tiếng rin rít của cần gạt nước, chiếc xe buýt nghiêng ngả nghiền nát lớp tuyết mới đóng, ánh đèn màu lấp lánh bên ngoài cửa sổ; đêm Giáng sinh năm 1952. Vera và tôi, lạnh cóng người, ngồi sát vào mẹ ở ghế sau. Một phụ nữ tốt bụng mặc áo choàng lông nhoài người qua lối đi và đặt đồng sáu xu vào tay mẹ: ‘Quà cho đám nhỏ dịp Giáng sinh’
‘Người phụ nữ cho mẹ sáu xu’
Mẹ, mẹ của chúng tôi, không quăng đồng xu vào mặt bà ấy; bà lí nhí ‘Cảm ơn quý bà’ rồi đút nó vào túi. Thật nhục nhã!
‘À, vụ đó hả? Tôi nghi bà ta đang xỉn. Cô đã nhắc lại một lần rồi. Tôi chẳng hiểu vì sao cô cứ lải nhải chuyện này mãi thế’
‘Chính giây phút đó - chứ không phải những chuyện xảy ra với em về sau - đã biến em trở thành một nhà xã hội học bền bỉ’
Đầu dây bên kia im lặng, và trong một thoáng tôi tuởng chị đã cúp máy. Sau đó: ‘Có lẽ chính giây phút đó đã biến tôi thành người phụ nữ mặc áo choàng lông’