- 30 - Hai cuộc hành trình
Tôi dậy sớm với cái cổ cứng đơ. Hồi tối, tôi phải chọn giữa việc chia đôi giường tầng với Stanislav hay ngủ trên chiếc trường kỷ hai chỗ. Tôi đã chọn trường kỷ. Bên ngoài vẫn chưa sáng hẳn, bầu trời u ám và đầy mây.
Nhưng căn nhà đã ồn ã âm thanh và hoạt động. Ba tôi đang cất tiếng hát trong phòng tắm. Valentina, Stanislav và Dubov nháo nhào chạy lên chạy xuống chất đồ lên xe. Tôi pha một tách trà, rồi nhìn ra ngoài cửa sổ.
Sức chứa của chiếc Rolls Royce thật đáng kinh ngạc.
Hai túi ni lông căng phồng chứa đủ thứ đồ đạc nhìn chẳng rõ là gì được Valentina đẩy gọn vào cốp xe. Bộ sưu tập CD của Stanislav đựng trong hai hộp các tông, cùng với máy nghe CD, được chèn giữa hai kiện tã giấy to đùng dưới gầm ghế sau. Hai chiếc va li và cái ba lô nhỏ màu xanh của Dubov được nhét vào cốp. Một cái ti vi (lấy ở đâu ra?) và một máy chiên nhúng (cũng lấy ở đâu ra?) được nhét vào cốp. Một thùng các tông chứa thức ăn đông lạnh phân theo loại và một thùng cá thu đóng hộp được nhét vào cốp. Một chiếc máy phô tô xách tay nhỏ được nhét vào cốp. Chiếc máy hút bụi màu xanh dành cho người hiện đại hiệu Hoover (giờ đã dùng được túi rác bình thường, do ba tôi và Dubov sửa lại - ba tôi kể) và nồi áp suất của mẹ (sao ả dám!) được nhét vào cốp. Giờ thì cốp xe đã chật cứng (rầm!) và họ bắt đầu chất đồ lên mui. Chiếc nôi em bé bằng gỗ phủ sơn được tháo rời và buộc dây chắc chắn rồi chất lên mui. Một, hai, ba - lên nào! - một chiếc va li khổng lồ chất liệu sợi thủy tinh, to bằng một cái tủ áo nhỏ, được chất lên mui. Rồi - ôi trời, không thể nào - Stanislav và Dubov vất vả khiêng cái bếp màu nâu không-dùng-điện không-dành-cho-nông-dân chật vật đi qua vườn - khuỵu gối xuống, Stanislav, khuỵu gối xuống! Nhưng làm sao họ nâng nó lên nóc xe được?
Dubov chế ra một cái ròng rọc từ dây chão dày và vải bạt chắc bền. Anh ta vắt sợi dây qua một cành tần bì vững chãi ven đường ở trước nhà, rồi kéo sợi dây sao cho nó lọt vào đoạn ba chạc. Anh ta cùng Stanislav hạ cái bếp xuống khung vải bạt. Sau đó Valentina leo lên chiếc Lada, Dubov hướng dẫn cho cô ả lái tới trước cái bếp và nối đầu dây chão còn lại với cái hãm xung của chiếc Lada. Khi cô ả lái chiếc xe nhích từng chút một - Từ từ, Valenka, từ từ thôi!’ - cái bếp được nâng lên, lắc qua lắc lại, rồi treo lơ lửng, Dubov giữ nó thăng bằng rồi ra hiệu cho cô ả dừng xe lại.
Chiếc Lada xì khói, động cơ kêu sòng sọc nhưng thắng tay vẫn hoạt động tốt. Giờ thì chiếc Rolls Royce được lái tới - Stanislav ngồi ở ghế tài xế! - đậu ngay bên dưới cái bếp đang lắc lư trong khung vải bạt. Ba tôi cũng đã chạy ra vườn giúp Dubov ra hiệu, tay vẫy rối rít - tiến lên một chút - lùi lại một chút - dừng lại!
Dubov ra hiệu cho Valentina.
‘Lùi lại, Valenka. Nhẹ nhàng! Nhẹ nhàng thôi! DỪNG LẠI!’
Valentina không giỏi thắng chân cho lắm, cái bếp rơi xuống rầm một cái, nhưng chiếc Rolls Royce và khung hành lý Dubov lắp trên mui xe vẫn chịu nổi.
Mọi người vỗ tay hoan hô, mấy người hàng xóm cũng bước ra đường quan sát. Valentina bước ra khỏi chiếc Lada, õng ẹo đi đến bên cạnh Dubov trên đôi dép cao gót (hèn gì ả thắng chân không khá) rồi hôn vào má anh ta - ‘Holubchik!’ Stanislav bấm còi chiếc Rolls Royce - hồi còi trầm thấp ngân vang - và mọi người lại hoan hô lần nữa.
Sau đó tấm vải bạt được quấn quanh mọi thứ trên khung hành lý, rồi được buộc dây cố định, và thế là xong. Họ đã sẵn sàng lên đường. Tấm áo choàng lông của Valentina trải khắp ghế sau, bên trên đó, quấn trong mấy lớp chăn, là bé Margaritka. Mọi người ôm hôn tạm biệt, trừ ba và Valentina cứ mãi tránh né nhau một cách tế nhị. Dubov ngồi vào ghế lái. Stanislav ngồi ghế trước cạnh anh ta. Valentina ngồi đằng sau với đứa bé. Động cơ chiếc Rolls Royce gừ gừ thỏa mãn như một con mèo lớn. Dubov gài số, nhấn ga. Thế là họ lên đường. Ba tôi và tôi bước ra ngoài đường vẫy tay chào họ cho đến khi họ biến mất sau khúc quẹo.
Đây có phải là kết thúc chăng?
Vẫn còn vài thứ lặt vặt cần phải thu xếp. Thật may Valentina để chìa khóa chiếc Lada lại trong xe, nên tôi lái nó vào trong ga ra. Trong hộp để găng có giấy tờ xe, và thật ngạc nhiên, có cả giấy tờ và chìa khóa của chiếc xe thổ tả nữa. Cũng chẳng ích gì với ba lắm vì bằng lái của ông hết hạn lâu rồi, mà bác sĩ Figges thì từ chối không ký giấy cho phép gia hạn.
Trong bếp, cái bếp điện cũ của mẹ đã được đặt vào chỗ cũ, thay cho chiếc bếp ga, và xem ra vẫn còn dùng được, ngay cả cái vòng bếp vốn bị hư khi trước, vẫn còn phải lau dọn lại một chút, nhưng không đến nỗi khủng khiếp như lần đầu. Trong phòng Stanislav, tôi tìm thấy một cái quần thể dục hôi rình dưới gầm giường, ngoài ra không còn thứ gì khác nữa. Trong phòng ngủ của Valentina có vài bộ quần áo cũ, rất nhiều giấy gói, túi mua hàng rỗng và hành đóng bông tẩy trang dùng rồi. Một túi mua hàng chứa đầy giấy tờ. Tôi liếc qua xem thử - chúng chính là đống giấy tờ tôi từng tống vào tủ đá. Tôi để ý thấy có cả giấy chứng nhận két hôn và hình đám cưới. Chỗ cô ả đi kỳ này không cần đến chúng. Tôi có nên quẳng chúng đi không? Không, vẫn chưa nên.
‘Ba có buồn không ba?’
‘Lần đầu Valentina đi thì có buồn. Lần này thì không đến nỗi. Cô ấy là một phụ nữ xinh đẹp, nhưng có lẽ ba không làm cô ấy hạnh phúc. Có lẽ sống với Dubov cô ấy sẽ hạnh phúc hơn. Dubov là người tốt. Anh ta có thể sẽ giàu to ở Ukraina.’
‘Thật ư? Vì sao?’
‘À ha! Ba đã đưa cho anh ta sáng chế thứ mười bảy của mình!’
Ông dẫn tôi vào phòng khách và lôi ra một cái hộp chứa đầy giấy tờ. Bản vẽ kỹ thuật tỉ mỉ và vô cùng chi tiết, với những ký hiệu toán học do chính tay ba tôi ghi chú lên.
‘Cả đời ba đã đăng ký mười sáu bằng sáng chế. Cái nào cũng hữu dụng. Chẳng cái nào làm ra tiền. Cái thứ mười bảy là cái cuối cùng - không có thời gian đi đăng ký.’
‘Nó dùng làm gì?’
‘Thanh công cụ cho máy kéo. Nó giúp sử dụng một máy kéo với nhiều công cụ khác nhau - cày, bừa, xịt thuốc - tất cả đều dễ dàng đổi chỗ cho nhau. Đương nhiên đã có thứ tương tự như vậy rồi, nhưng bản thiết kế này ưu việt hơn. Ba đã đưa cho Dubov coi. Anh ta hiểu nên dùng nó thế nào. Có lẽ nó sẽ giúp nền công nghiệp máy kéo Ukraina hồi sinh.’
Thiên tài hay điên loạn? Tôi không biết.
‘Mình uống trà đi ba.’
Tối hôm đó, sau bữa ăn nhẹ, ba tôi trải tấm bản đồ lên chiếc bàn trong phòng ăn-kiêm-phòng-ngủ, tay chỉ trỏ, mắt miệt mài xem xét.
‘Nhìn này. Ở đây,’ ông chỉ, ‘họ đã vượt biên giới từ Felix-stowe đến Hamburg. Sau đó là từ Hamburg đến Berlin. Vượt biên ở Guben vào Ba Lan. Sau đó là Wroclav, Krakow, vượt biên ở Przemysl. Ukraina. Quê hương.’
Ông im lặng.
Tôi chăm chú nhìn tấm bản đồ. Có một con đường khác được đánh dấu bằng bút chì, đan chéo với con đường ba tôi dùng ngón tay chỉ trỏ. Hamburg đến Kiel. Từ Kiel, đường bút chì chạy về phía Nam đến Bavaria. Sau đó lại vòng lên vào Czechoslovakia. Bmo. Ostrava. Băng vào Ba Lan. Krakow. Przemysl. Ukraina.
‘Ba ơi, đây là gì vậy?’
‘Đây là hành trình của bọn ba.’ Từ Ukraina đến nước Anh. Ông lần ngược lại. ‘Cùng hành trình, khác hướng.’ Giọng ba buồn bã, mệt mỏi. ‘Nhìn này, phía Nam gần Stuttgart là Zindelfingen. Ludmilla làm việc trong xưởng lắp ráp Daimler-Benz. Ludmilla và Vera ở đó gần một năm. Năm một ngàn chín trăm bốn mươi ba.’
‘Họ ở đó làm gì chứ?’
‘Công việc của Milla là lắp ống dẫn nhiên liệu vào động cơ máy bay. Động cơ xịn nhưng lắp vào máy bay thì hơi nặng. Tỷ lệ kéo đẩy thấp. Khó điểu khiển, tuy một vài tiến bộ mới đáng thú vị trong thiết kế cánh máy bay thì chỉ...’
‘Vâng, vâng,’ tôi cắt ngang. ‘Đừng nói về máy bay nữa. Kể cho con nghe chuyện gì xảy ra trong chiến tranh đi.’
‘Chuyện xảy ra trong chiến tranh à? Người dân chết - đó là chuyện xảy ra trong chiến tranh.’ Ông bạnh cằm nhìn tôi bướng bỉnh. ‘Những người dũng cảm nhất thì chết trước nhất. Người có niềm tin chết vì niềm tin. Những người sống sót...’ Ông bắt đầu ho. ‘Con biết là hơn hai mươi triệu công dân Xô viết chết đi trong cuộc chiến tranh này mà.’
‘Con biết.’ Nhưng dẫu vậy, con số ấy vẫn quá lớn đến mức không sao nhận thức nổi. Trong đại dương máu và nước mắt mênh mông đó, đâu là cột mốc, đâu là ranh giới quen thuộc? ‘Nhưng con không quen ai trong số hai mươi triệu người đó, ba à. Kể cho con nghe về ba, mẹ và Vera đi. Sau đó thì thế nào?’
Tay ông lần theo đường vạch bằng bút chì.
‘Ở đây, gần Kiel, đây là Drachensee. Ba ở trại này một thời gian. Sản xuất nồi hơi cho tàu biển. Ludmilla và Vera đến đây vào gần cuối cuộc chiến tranh.’
Drachensee: nó nằm đó trên bản đồ, trơ tráo, một chấm đen với những con đường màu đỏ tỏa đi bốn phía, cứ như là một nơi bình thường như bao nơi khác vậy.
‘Vera có kể một chút về khu trừng phạt.’
‘À há, đúng là một giai đoạn xui xẻo. Tất cả là tại thuốc lá. Ba đã nói với con rồi, ba nghĩ thuốc lá đã cứu sống ba, phải không? Nhưng ba chưa kể cho con biết rằng ba suýt mất mạng vì thuốc lá. Vì trò phiêu lưu của Vera với thuốc lá. May mắn là sau đó chiến tranh kết thúc. Người Anh tới vừa đúng lúc - cứu bọn ba ra khỏi khu trừng phạt. Nếu không bọn ba sẽ không sống sót nổi.’
‘Vì sao? Cái gì...? Bao lâu...?’
Ông ho sù sụ một lát, lảng tránh ánh mắt của tôi.
‘May mắn là vùng giải phóng đó do người Anh kiểm soát. Một điều may mắn nữa là nơi sinh của Ludmilla, Novaya Aleksandria.’
‘Sao lại may mắn?’
‘Bởi vì Galicia lúc trước thuộc về Ba Lan, người Ba Lan được phép ở lại phương Tây. Theo hiệp định Churchill-Stalin, người Ba Lan có thể ở lại Anh, người Ukraina bị trả về. Đa số bị gửi tới Siberia - đa số bỏ mạng. May mà Millochka vẫn còn giữ giấy khai sinh, cho thấy bà ấy được sinh ra ở Ba Lan cũ. May nữa là ba có giấy làm việc cho bọn Đức. Ghi là ba đến từ Dashev. Người Đức tự động đổi chữ kirin sang chữ La Mã. Dashev trở thành Daszewo. Phát âm thì nghe như nhau, nhưng Daszewo ở Ba Lan còn Dashev thì ở Ukraina. Ha ha. May là nhân viên xuất nhập cảnh không dị nghị gì. Một thời gian ngắn mà gặp nhiều may mắn quá - đủ cho cả đời.’
Trong ánh sáng mờ ảo của bóng đèn bốn mươi watt, những đường nét và vết sạm trên gò má nhăn nheo của ba nhìn sâu hoắm như vết sẹo. Ba nhìn già quá. Khi tôi còn trẻ, tôi muốn ba tôi là một anh hùng. Tôi xấu hổ khi biết ba mình trốn trong nghĩa địa rồi bỏ chạy đến Đức. Tôi muốn mẹ mình là một nữ anh hùng lãng mạn. Tôi muốn câu chuyện của họ là câu chuyện về tình yêu và lòng dũng cảm. Giờ khi đã trưởng thành, tôi nhận ra là họ không phải anh hùng. Họ chỉ sống sót, thế thôi.
‘Con thấy đấy, Nadezhda, sống sót là chiến thắng’
Ông nháy mắt, vết nhăn sâu hoắm ở khóe miệng và khóe mắt hằn lên thích thú.
Sau khi ba đi ngủ, tôi gọi điện cho Vera. Giờ đã khuya và chị cũng mệt rồi, nhưng tôi cần nói chuyện. Tôi bắt đầu với những chuyện dễ nói.
‘Đứa bé đẹp lắm. Con gái. Họ đặt tên nó là Margaritka theo tên bà Thatcher’
‘Nhưng cô có biết ai là cha nó không?’
‘Là Dubov’
‘Không thể nào...’
‘Không, không phải là cha ruột. Nhưng anh ta là cha của nó về mọi mặt’
‘Nhưng cô không biết người cha thực sự của nó là ai à?’
‘Dubov là người cha thực sự’
‘Thật tình, Nadia à. Cô đúng là hết nói nổi’
Tôi hiểu ý của chị, nhưng sau khi thấy cách Dubov cầm bình sữa, tôi không còn quan tâm đến chuyện về mặt sinh học thì ai là cha đứa bé nữa. Thay vào đó, tôi kể cho chị nghe về bộ đồ trẻ sơ sinh đính ren hồng, chiếc quần co giãn có móc dưới gót, bữa tối ăn đồ đông lạnh cuối cùng. Tôi tả cách họ làm sao nâng chiếc bếp không-dùng-điện lên khung hành lý ở mui xe, và mọi người đã hoan hô thế nào. Tôi cũng tiết lộ về bằng sáng chế thứ mười bảy của ba.
‘Thật sao!’ thỉnh thoảng chị lại kêu lên như vậy trong lúc tôi kể chuyện, và tôi tự hỏi có nên hỏi chị về khu trừng phạt hay không.
‘Em thích mê vẻ dễ thương của đứa bé. Em cứ tưởng là em sẽ ghét nó.’ (Tôi đã tưởng tượng rằng khi nhìn vào nôi, tôi sẽ biết ngay ai là cha nó - dòng dõi xấu xa sẽ hiện rõ trên mặt đứa bé.) ‘Em cứ nghĩ nó là bản sao thu nhỏ của Valentina, một ả xấu xa quấn tã. Nhưng đứa bé chỉ là chính nó mà thôi.’
‘Trẻ con thay đổi mọi thứ, Nadia à.’ Có tiếng loạt xoạt ở đầu dây bên kia, và tiếng hít thở thật chậm. Vera đang đốt một điếu thuốc. ‘Tôi còn nhớ lúc cô mới ra đời’
Tôi không biết nên nói gì, nên tôi chờ chị tiếp tục câu nói hồi tưởng đó, nhưng chỉ có tiếng thở dài, sau đó là im lặng.
‘Vera, kể cho em...’
‘Không có gì để kể cả. Cô là một đứa bé xinh đẹp. Chúng ta đi ngủ thôi. Trễ rồi’
Chị không kể cho tôi, nhưng tôi cũng đoán ra được.
Ngày xửa ngày xưa, có một đứa bé Chiến tranh và một đứa bé Hòa bình. Đứa bé Chiến tranh được sinh ra vào đêm trước của cuộc xung đột lớn nhất mà thế giới được biết, trong một đất nước bị cái đói giày vò và bị gọng kìm điên cuồng của tên độc tài hoang tưởng xiết đến nghẹt thở. Cô bé khóc rất nhiều, vì mẹ có rất ít sữa. Ba cô bé không biết nói gì với cô, nên cũng chẳng nói gì nhiều. Sau một thời gian ông bỏ đi. Rồi mẹ cô cũng bỏ đi. Một người bà họ nuôi cô lớn, yêu thương cô và cô cũng yêu thương bà. Nhưng khi chiến tranh nổ ra, thị trấn công nghiệp nơi người bà họ ở quá nguy hiểm, nên mẹ cô quay về đón cô đến một ngôi làng và sống chung với ông bà nội, nơi cô sẽ được an toàn. Cô không bao giờ được gặp lại người bà họ nữa.
Ông bà nội của Cô bé Chiến tranh là một cặp kỳ quặc, với cách nuôi dạy trẻ con hết sức nghiêm khắc. Họ cũng đang nuôi một đứa cháu ngoại, một cô bé bụ bẫm hiếu động tên là Nadezhda, lớn hơn cô em họ vài ba tuổi. Cha mẹ Nadezhda sống ở Moscow. Nadezhda được đặt tên theo tên bà ngoại, là cục cưng của bà. Cô bé Chiến tranh là một đứa bé gầy gò, nhút nhát, và lặng lẽ như một con chuột. Cô đứng hàng giờ ngoài cổng, chờ mẹ quay về.
Mẹ của Cô bé Chiến tranh vừa phải dành thời gian cho cô bé vừa phải dành thời gian cho ba của cô. Ông đang sống ở một thành phố lớn phía Nam và hiếm khi ghé về vì bận những Công việc Quan trọng. Những cuộc viếng thăm của mẹ lúc nào cũng kết thúc bằng những trận cãi vã với bà Nadia. Khi mẹ đi rồi, bà nội sẽ kể cho Cô bé Chiến tranh nghe những câu chuyện khủng khiếp về phù thủy và người khổng lồ độc ác chuyện ăn sống nuốt tươi những đứa bé hư.
Cô bé Chiến tranh không bao giờ hư cả; trên thực tế cô hầu như chẳng nói tiếng nào. Tuy nhiên, thỉnh thoảng cô cũng làm đổ sữa hay vỡ trứng, khi đó cô sẽ bị trừng phạt. Kiểu phạt không tàn nhẫn, nhưng lại rất quái lạ. Cô bị bắt phải đứng một tiếng đồng hồ trong góc, tay cầm vỏ trứng vỡ hay một tờ giấy viết tay ghi là ‘Hôm nay tôi làm đổ sữa’ Chị họ Nadia sẽ nhăn mặt trêu chọc cô. Cô bé Chiến tranh không nói gì. Cô lặng yên đứng trong góc, tay cầm biểu tượng của sự đổ vỡ. Cô đứng trong góc và quan sát.
Đáng sợ nhất là khi cô bị bắt vào chuồng gà để nhặt trứng, bởi vì ở đó có một con gà trống mắt sáng rực, mào hung dữ đứng canh gác. Mỗi khi nó vươn người, vỗ cánh và cất tiếng gáy, nó cao gần bằng Cô bé Chiến tranh. Nó thường phóng tới mổ vào chân cô. Chả trách cô hay làm rơi trứng.
Một ngày nọ, ngọn gió chiến tranh đưa mẹ của Cô bé Chiến tranh quay lại ngôi làng: bà trở lại và không đi nữa. Ban đêm, Cô bé Chiến tranh và mẹ cùng chui vào chăn, mẹ kể cho cô nghe những câu chuyện về ông cố Ocheretko cùng con ngựa đen tuyệt vời của ông tên là sấm sét, về đám cưới của bà Sonia ở Thánh đường Vòm vàng, và về những đứa bé dũng cảm giết chết phù thủy và quỷ dữ.
Mẹ và bà Nadia vẫn còn bất đồng quan điểm nhưng họ không tranh cãi thường xuyên như trước, vì hằng ngày mẹ còn đi làm ở nông trang tập thể, nơi tài chữa bệnh cho sức vật của mẹ rất được hoan nghênh, dẫu mẹ chỉ mới học có ba năm. Thỉnh thoảng mẹ được trả tiền, nhưng thường thì người quản lý nông trại trả công mẹ bằng trứng, lúa mì hay rau. Có lần mẹ khâu lại bụng của một con heo bị bò húc phải, dùng chỉ may áo màu đen vì không tìm đâu ra chỉ phẫu thuật cả. Con heo nái đó sống sót, và khi nó sinh ra mười một con heo con, mẹ được cho một con mang về nhà.
Sau đó lính tráng bắt đầu kéo tới ngôi làng - lính Đức, rồi đến lính Nga, rồi lại lính Đức. Người sửa đồng hồ trong làng và gia đình của ông ta bị lôi đi trong một chiếc xe tải bít bùng vào một buổi chiều, và từ đó không ai biết được tin gì về họ nữa. Cô con gái cả của ông ta, một cô bé xinh xắn ít nói khoảng mười bốn tuổi, đã may mắn trốn thoát khi đám lính kéo tới. Bà Nadia cho cô vào nhà và giấu cô trong chuồng gà (con gà trống đáng sợ đã bị làm thịt từ lâu, cặp chân cựa bén của nó đã được nấu nhừ thành món xúp gà ngon nhất trần đời). Dầu bà Nadia là một người nghiêm khắc, bà biết cái gì đúng, cái gì sai, và bắt người ta đi trong xe tải bít bùng là sai. Rồi một đêm nọ, ai đó châm lửa đốt chuồng gà. Không ai biết đó là người nào. Con gái của người thợ sửa đồng hồ và hai con gà còn sót lại bị chết cháy.
Cuối cùng thì cơn gió chiến tranh cũng đưa cha của Cô bé Chiến tranh về nhà. Một buổi sáng tinh mơ, khi trời vẫn còn lờ mờ tối, một người đàn ông gầy gò với vết thương sưng mủ nơi cổ họng đến trước cửa. Bà Nadia rú lên và cầu xin chúa rủ lòng thương. Ông nội Mayevskyj vào làng, đưa tiền cho một người để xin vài loại thuốc dành riêng cho quân đội. Mẹ đun sôi giẻ rách, dùng nó để lau vết thương. Mẹ ở bên giường của ba cả ngày lẫn đêm, bảo Cô bé Chiến tranh ra ngoài chơi với chị họ Nadia. Thỉnh thoảng Cô bé Chiến tranh lẻn vào phòng và được phép ngồi lên giường. Ba nắm lấy tay cô nhưng không nói gì. Sau vài tuần, ông khỏe lại, đã có thể ngồi dậy và đi lòng vòng quanh nhà. Rồi ông lại biến mất, cũng bí ẩn như khi đến.
Rất nhanh sau đó, đã đến lúc Cô bé Chiến tranh và mẹ cô rời đi. Quân Đức kéo đến ngôi làng, bắt tất cả những người khỏe mạnh trong độ tuổi lao động rồi tống họ lên xe lửa. Họ bắt mẹ của Cô bé Chiến tranh. Lẽ ra họ đã bỏ cô bé ở lại, nhưng vì mẹ cô gào khóc không ngớt, họ đành để cô theo cùng. Đó là một toa xe chở hàng không có ghế ngồi: ai nấy chen chúc trên các bó rơm hay ngồi bệt xuống sàn. Chuyến xe lửa đó kéo dài chín ngày, thức ăn chỉ có bánh mì ôi và rất ít nước, và chỉ có một cái thùng nằm ở góc toa xe để họ đi vệ sinh. Nhưng không khí rất phấn khích.
‘Chúng ta sẽ đi đến một doanh trại’ mẹ Cô bé Chiến tranh nói, ‘ở đó chúng ta sẽ được an toàn. Chúng ta sẽ làm việc và có đồ ăn ngon để ăn. Mà biết đâu ba cũng đang ở đó’
Cô bé Chiến tranh thất vọng khi thấy doanh trại không có lều và ngựa như ở nơi cắm trại của người Cô dắc mà mẹ từng kể. Nó là một ma trận những tòa nhà bê tông với hàng rào kẽm gai cao ngất. Dù sao thì Cô bé Chiến tranh và mẹ cũng có giường để ngủ và có đồ để ăn. Hằng ngày, mẹ và những phụ nữ khác bị dẫn lên xe tải đưa đến một nhà máy nơi họ phải lắp ráp động cơ máy bay trong suốt mười hai tiếng. Cô bé Chiến tranh bị bỏ lại trong doanh trại với những đứa trẻ khác lớn hơn mình nhiều tuổi cùng tên lính gác nói thứ tiếng cô không hiểu. Cô dành hàng giờ đồng hồ nhìn qua hàng rào kẽm gai, chờ chiếc xe tải chở mẹ cô quay về. Buổi tối, mẹ cô quá mệt mỏi để kể chuyện cho cô nghe. Nằm sát nhau trong bóng tối, Cô bé Chiến tranh lắng nghe hơi thở của mẹ cho đến khi cả hai cùng chìm vào giấc ngủ. Thỉnh thoảng cô bé tỉnh dậy trong đêm bởi tiếng nức nở của người mẹ. Nhưng vào buổi sáng, mẹ cô thức dậy, rửa mặt rồi đi làm như chưa có chuyện gì xảy ra.
Rồi một ngày nọ, ngọn gió chiến tranh thổi mẹ và Cô bé Chiến tranh đến một doanh trại khác, ba cũng có ở đó. Nó cũng giống như doanh trại đầu tiên nhưng lớn hơn và đáng sợ hơn. Có rất nhiều người đến từ nơi khác không phải là người Ukraina, bọn lính gác thì cầm roi. Một chuyện khủng khiếp đã xảy ra ở doanh trại đó, khủng khiếp tới mức nên quên nó đi, tới mức đừng nên biết gì về sự tồn tại của nó.
Rồi đột nhiên không còn chiến tranh nữa, đã hòa bình rồi. Gia đình cùng lên một chiếc thuyền lớn và băng qua biển đến một đất nước khác. Nơi đó mọi người nói chuyện bằng một ngôn ngữ tức cười. Dẫu họ vẫn sống trong doanh trại nhưng thức ăn nhiều hơn, ai nấy đều đối xử với họ rất tốt. Dường như là muốn ăn mừng hòa bình đã đến, một đứa bé lại được sinh ra. Cha mẹ cô đặt tên cô là Nadezhda theo tên những Nadezhda khác mà họ đã bỏ lại, vì Nadezhda nghĩa là ‘hy vọng’.
Cô bé Hòa bình được sinh ra trong một quốc gia vừa mới chiến thắng. Dẫu tình hình còn khó khăn nhưng cả nước đều hết sức phấn khởi. Những người đủ sức làm việc sẽ làm việc cho tất cả, ai cần sẽ được giúp đỡ. Trẻ em được cấp sữa, nước cam và dầu cá để lớn lên khỏe mạnh.
Cô bé Hòa bình uống ừng ực sữa, nước cam và dầu cá, lớn lên cứng đầu và bất trị.
Cô bé Chiến tranh lớn lên thành Bà Chị Lớn.