← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IV ĐỨC SÁNG SỦA

1. – Viết văn không phải là ra thai.

2. – Lối văn hàm hồ không phải là khó, minh bạch mới là khó.

3. – Thế nào là sáng sủa.

4. – Muốn cho ý được sáng sủa. Một lời khuyên của Moreux.

5. – Chấm câu là một việc rất quan trọng.

6. – Phân biệt những dấu,: ;

7. – Những lỗi nên tránh:

a. Câu dài quá.

b. Dùng nhiều điển tích khó hiểu và nhiều chữ nho.

c) Dùng những danh từ chuyên môn mà không giảng ra.

d) Những câu thiếu nghĩa.

e) Những câu có thể hiểu lầm.

f) Vụng dùng những tiếng như, hơn, hay.

g) Sơ ý.

h) Vô nghĩa.

i) Một lối sơ sót thường thấy.

1

Viết – mà nói cũng vậy – là để phô diễn tình cảm, tư tưởng hoặc những điều mắt thấy tai nghe của cho người khác hiểu, biết. Vậy viết văn không phải là ra thai và văn không rõ ràng thì không thể gọi là văn hay vì không đạt mục đích của nó là diễn ý.

Nếu chỉ vì vô tâm mà văn ta tối thì chỉ mang cái lỗi vụng về hoặc cẩu thả. Còn nếu ta cố ý viết cho khó hiểu để cho người khác mất công suy nghĩ thì tội của ta nặng hơn nhiều. Không những ta đã ngu dại làm mất thì giờ độc giả, ta lại còn khinh miệt họ nữa vì ta có vẻ như bảo họ rằng: “Nếu các người không hiểu, chính là tại kiến văn các người còn nông hẹp; tôi không thể vì trình độ “sơ đẳng” của các người mà hạ tư tưởng cao kỳ của tôi xuống hoặc đổi lối hành văn huyền diệu của tôi được”. Khinh độc giả mà lại cầu cho tác phẩm của mình được nhiều người đọc, được lưu truyền lại hậu thế thực là điên.

Than ôi! Ở đời lại không thiếu chi kẻ điên như vậy. Hồi đầu thế chiến thứ nhì, ở Bắc Việt có một nhóm văn sĩ tự lấy làm kiêu hãnh, viết được một lối văn “hũ nút”[1]. Họ xuất bản một tập mà chắc bây giờ các bạn không còn nhớ tên nữa, nên tôi xin nhắc lại: Đó là cuốn Xuân Thu nhã tập.

Nhóm của họ được 5 – 6 người. Trong bài “Thơ” của 3 người chung viết là Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Xanh, họ bầy tỏ quan niệm của họ về thơ: “Thơ là Đạo, cái đệ nhất nguyên lý, sẽ sáng tạo được vạn vật, khi đã chia âm dương. Âm dương phải tương phối mới có sáng tạo, phát huy được cái đạo nguyên thuỷ.

Có thể viết thành cái vòng tương sinh:

.

Đạo -> Ầm + Dương -> Sáng Tạo -> Rung Động -> Thơ -> Đạo.

Và điều kiện cần và đủ của cái rung động là: siêu việt, trong trẻo, nhịp nhàng. (Nó phải cho ta cảm thông với Tuyệt đối, và được truyền diễn một cách thật và đẹp. Như thế Thơ mới bắt kịp Đạo, cái lẽ cuối cùng...).

(Xuân Thu nhã tập xuất bản năm Nhâm ngọ trang 35).

Lối lý luận siêu hình học đó cũng thiệt rắc rối: “Thơ là Đạo, lại sinh ra Đạo, rồi lại bắt kịp Đạo”, nghĩa là làm sao? Tuy vậy ta còn đoán được quan niệm của tác giả là thơ phải thật và đẹp. Nhưng đến khi đọc những vần của họ mà họ mệnh danh là “nhã” thì tuyệt nhiên ta không còn hiểu được chút gì cả.

Đây, tôi xin cử một thí dụ trích trong “Xuân Thu nhã tập”

BUỒN XƯA

Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi

Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y

Rượu hát bầu vàng cung ướp hương

Ngón hường say tóc nhạc trầm mi,

Lẳng xuân

Bờ giữ trái xuân sa

Đáy đĩa mửa đi nhịp hải hà

Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm

Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa.

Buồn hưởng vườn người vai mới tươi

Ngàn mày tràng giang buồn muôn đời

Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu

Duyên vàng dạ lộng trái du ngươi.

Ngọc quế buồn nào gội tóc xưa

Hồn xa chĩu sách nhánh say sưa

Hiến dâng

Hiến dâng quả bồng hường

Hoàng tử nghiêng hồn vây tóc mưa,

Đường tràn xây trái buổi du dương

Thời gian ôi lướt hận chìm tường

Nguồn buồn lạnh lẽo thoát cung hơi

Ngọt ngào nhớ cháy tự trăm phương.

(Nguyễn Xuân Sanh)

Bạn thử đọc 5 - 6 lần đi xem có hiểu được chút gì không. Chẳng những bạn không hiểu mà tôi tưởng cả những thi sĩ trong nhóm Xuân Thu, nếu không được tác giả giảng trước cho, thì cũng “bí” như chúng ta. Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ nhiều thi nhạc bậc nhất mà cũng phải cho lập dị đến như vậy là cực độ.

Emile Faguet, một nhà phê bình trứ danh của Pháp, nói rằng có nhiều văn nhân cố ý viết cho tối nghĩa, để được cái danh là những “tác giả khó hiểu”. Họ suy nghĩ một cách sáng sủa như mọi người rồi mới viết. Nhưng khi viết xong, họ sửa lại cho văn thêm bí hiểm. Nietzsche nói: “Bây giờ, văn của ta mới được sáng đây”, còn họ thì nói: “Bây giờ, văn cua ta mới được tối đây”.

Tôi chắc nhóm Xuân Thu đã dẫm phải vết chân của bọn thi nhân quái đản ấy. Họ theo thuyết dadaisme do Tristan Tzara đề xướng. Đối với thi sĩ này viết là một hành dộng riêng tư, không liên quan gì tới ai, nên không cần cho người hiểu. Ông bỏ hết cả văn phạm cùng quy tắc hành văn, bỏ cả chấm câu, chỉ còn giữ lại những tiếng mà ông sắp với nhau ra sao tùy ý. Ông tuyên bố rằng cái nguy cần phải tránh là người đọc hiểu được ông. Trách chi Emile Henriot trong bài “La poésie en désarroi” chẳng phải than: “Các thi nhân đương làm cho công chúng ghê tởm thơ”, và ông Jean Suberville trong cuốn “Théorie de l’Art et des genres littéraires” chẳng phải tự hỏi: “Không biết những thi nhân có điều gì để nói không? Chắc là không vì nếu có thì sao họ không nói ra?”

Cũng may, hồi Xuân Thu nhã tập xuất bản, phái Lettrisme chưa xuất hiện ở Pháp; nếu không, chắc họ cũng bắt chước Paul Guth, bỏ cả từ ngữ, chỉ dùng âm thôi để sắp thành những bài thơ như sau này:

Agouassarnime jayouricai ariapaiva

Agouassapoure janélé quaiss arica mélé

Agouassacrouss poulipal oué maloca vie

Agouassacrouss janélé poulipal japal agoua[2]

Quả thật là bài thơ “nguyên tử” rất xứng với thời đại!

Cách đây 2000 năm, một thi hào La Mã là Ovide, bị đày tới một miền hoang dã. Ông không biết ngôn ngữ của thổ dân, than thở: “Ở đây, không phải là người bổn xứ là dã man, mà chính tôi mới dã man, vì tôi nói không ai hiểu tôi cả”.

2

Tất nhiên văn nhân hoặc thi nhân đôi khi cũng có những tâm sự, giấu kín trong dạ thì u uất, cần phải viết ra, ngâm lên cho vơi bớt nỗi lòng. Nhưng để cho người ngoài hiểu, thì không tiện nên phải dùng những lời hàm hồ, tức như bài Tự thán sau này của Nguyễn Trãi:

Chiếc thuyền lơ lững bên sông,

Biết đem tâm sự ngỏ cùng ai hay?

Chắc chi thiên hạ đời nay,

Mà đem non nước làm rầy chiêm bao?

Đã buồn về trận mưa rào,

Lại đau về nỗi ào ào gió đông.

Mây trôi nước chảy xuôi dòng,

Chiếc thuyền hờ hững trên sông một mình.

Bốn câu giữa trong bài ấy, về ý nghĩa thì cực rõ, nhưng không ai hiểu tác giả ám chỉ việc gì hết. Như vậy là vì Nguyễn Trãi muốn giấu tâm sự. Phê bình bài đó là một việc vô ý thức vì người làm nào có muốn cho ta đọc, coi. Đã phê bình mà lại khen rằng: “Tâm sự anh hùng khó thể người ngoài biết được đau đớn”, thì thật là nịnh anh hùng quá. Ngô Tất Tố phê bình lại câu phê bình trên của Nguyễn Khắc Hiếu mà khen là lời của một người sành thơ, thì càng vô lý hơn nữa.

Bài đó, thiệt quả là “lời lẽ thanh cao, ý tứ man mác”, nhưng có hay chỉ là hay ở hai câu đầu và hai câu cuối, chứ bốn câu giữa, thi sĩ nào làm mà không được? Không cần phải là nhà anh hùng mới biết nói một cách úp mở. Một anh bạn tôi, sau khi đọc xong hai lời phê bình trên kia, ứng khẩu ngâm:

Buồn vì mới sáng đã chiều,

Buồn vì con trẻ chơi diều đứt dây

Ý tứ rõ ràng không? Mà bạn có hiểu anh ám chỉ điều gì không? Tôi là bạn thân của anh, cũng không đoán nổi nữa. Anh phải giảng:

“Tôi nghĩ bùi ngùi cho anh Y, năm 1945 thời vận mới lên rồi lại suy liền, như bình minh mới hiện mà đã tiếp ngay cảnh chiều tà và như cánh diều đương bay bổng mà đứt dây.”

Anh giảng vậy thì tôi cũng hay vậy, chứ dùng câu đó để chỉ quân đội Nhật Bổn trong chiến tranh vừa rồi, thì cũng đúng, phải không bạn?

Vậy, trong văn chương, hàm hồ không phải là điều khó, minh bạch mới khó, vì khi viết ta thường quên điều này: “Cả những người thông minh nhất cũng hiểu ta rất ít”. Molière, Bạch Cư Dị, những thiên tài của muôn thuở, mà còn sợ văn mình không được sáng sủa, phải đọc cho người tớ gái nghe, để nhờ chỉ giùm những chỗ tối nghĩa, thì đủ biết đức rõ ràng cần thiết và khó tập tới bực nào!

3

Nhưng thế nào là sáng sủa? Phàm đọc chầm chậm một lần mà hiểu được ngay thì là văn sáng sủa đấy.

Tuy nhiên, trình độ hiểu biết của độc giả có nhiều hạng. Sách viết cho quần chúng đọc, như loại tiểu thuyết hoặc phổ thông, cần phải rõ ràng nhất. Loại sách chuyên môn viết cho một nhóm người coi thì cứ hạng người trung bình trong nhóm đó đọc mà hiểu là đủ rồi. Ta phải phân biệt như vậy để cho văn ta minh bạch mà khỏi rườm và người đọc khỏi dễ chán. Chẳng hạn viết về khoa học cho các học giả dùng mà định nghĩa hết thảy những danh từ chuyên môn thì là vô ý thức. Trái lại, viết cho bạn và tôi đọc mà không định nghĩa thì chúng ta sẽ hiểu được chút gì không?

4

Muốn cho văn được minh bạch thì trước hết ý phải sáng sủa. Đó là một chứng cớ nữa rằng lời và ý luôn luôn ảnh hưởng lẫn nhau.

Trong cuốn “Nghệ thuật nói trước công chúng”. tôi đã chỉ những quy tắc nên theo để cho ý được rõ ràng. Nhưng tôi tưởng nên xét thêm điều này nữa:

Moreux trong cuốn Science et Style khuyên muốn cho văn được rõ ràng thì nên học một Triết lý hoặc môn Hình học để tập cách lý luận. Lời ấy đúng. Tôi thường nhận thấy những trò giỏi toán cũng giỏi cả về lối nghị luận và văn thì luôn luôn sáng sủa, còn những trò dở toán mà có khiếu về văn chương thì lời lẽ tuy bóng bẩy, êm đềm, nhưng tư tưởng thường mâu thuẫn, lý luận không chặt chẽ.

Không phải chỉ ý tưởng xác đáng, mạch lạc rõ ràng là văn đủ hay đâu. Còn cần nhiều điều kiện nữa, nhưng hai đức ấy vẫn là cốt yếu. Nói ngay như một tiểu thuyết, tả cảnh, tả tình dù đặc sắc mà hành động của các nhân vật không được nhất trí, những biến hóa về tâm lý không được tự nhiên thì tác phẩm ấy cũng khó thể lưu truyền.

Có lẽ chỉ những thi nhân, khi cảm hứng, viết những bài thơ ngắn, là không cần hiểu môn tâm lý, không cần có óc lý luận mà thôi.

5

Có biết chấm câu thì lời mới được sáng sủa.

Chấm câu tức là đặt câu. Cho nên công việc chấm câu rất quan trọng.

Đổi lối chấm câu thì đổi luôn cả nghĩa câu và có thể sinh ra nhiều cuộc tranh biện rắc rối. Điều đó ai cũng rõ, song không hiểu sao người Trung Hoa văn minh làm vậy, mà non ba ngàn năm hễ viết một bức thơ hoặc cả một pho sách, cũng không bao giờ chấm câu, cứ để cho người đọc phải tự chấm lấy và mò tìm lấy nghĩa.

Chắc các bạn còn nhớ truyện một phú ông hồi xưa có một chàng rể tham lam và một đứa con trai còn nhỏ tên Phi. Khi ông sắp chết, không dám để của lại cho con trai, sợ chàng rể tìm cách sang đoạt mất, bèn viết một chúc thư giao cho rể, rồi dặn nhỏ người nàng hầu, mẹ tên Phi, đợi khi nào con trai trưởng thành thì kiếm một ông quan công minh, kể lể nỗi niềm để xin đòi lại gia tài ở trong tay người rể.

Bức chúc thư có mấy hàng sau này và tất nhiên là không chấm câu:

“Dư kim thất thập tuế sinh đắc nhất nam nhi phi[3] ngô tử dã kỳ gia tài giao dữ tế ngoại nhân bất đắc xâm tranh”.

Người rể đọc chúc thư đó, hiểu nghĩa như vầy: “Ta nay bảy mươi tuổi, sinh được một trai, không phải con ta vậy. Gia tài giao cho rể. Người ngoài không được tranh”. Do đó y mừng lắm, yên hưởng gia tài, không nghi ngờ gì cả.

Khi tên Phi trưởng thành, người nàng hầu tìm một vị quan công minh, kể hết lời dặn của chồng khi lâm chung, ông quan đòi người rể lại, bảo trình chúc thư rồi quát tháo bắt tội y đã gian trá đổi nghĩa để chiếm, gia tài. Ông bảo đoạn đó nghĩa rằng:

“Ta nay 70 tuổi, sinh được một trai (tên) Phi, là con ta vậy. Gia tài giao cho (nó). Rể là người ngoài, không được tranh.”

Người rể sợ uy đành phải trả lại gia tài cho tên Phi. Nhưng ở vào thời này, chưa chắc chàng đã thua kiện đâu, có thể thắng nữa là khác, vì lý của vị quan đó không vững.

Hai cách hiểu tương phản đó chỉ do lối chấm câu khác nhau mà thôi.

Người ta cũng có kể chuyện một lỗi chấm câu đã làm cho ngân quĩ của Mỹ mất một số tiền lớn. Quốc hội kí một đạo luật tha thuế nhập cảng cho các cây trái (fruit plants). Người chép lại đạo luật, vô ý bỏ gạch nối ở giữa hai tiếng cây trái mà đánh dấu phết hay thay vào: cây, trái. Thành thử người ta nhập cảng đủ các trái cây nào cam, chuối, nho, nhãn... mà khỏi phải trả một đồng thuế nào hết. Khi nhà chức trách hay, sửa lại chỗ lầm thì đã thiệt cho ngân khố một số tiền lớn rồi.

Ở nước ta, tôi chưa được nghe một chuyện nào tương tự, nhưng chắc không phải là không có. Xin bạn thử chấm câu đoạn sau này xem có mấy lối và ý nghĩa thay đổi tùy từng lối không:

Một người hớt tóc bạn của người bị thương tên là Xuân đã tới đây hồi chiều.

Tôi thấy có hai lối, nghĩa đều khác hẳn nhau:

- Một người hớt tóc, bạn của người bị thương tên là Xuân, đã tới đây hồi chiều.

(Người bị thương tên là Xuân).

- Một người hớt tóc, bạn của người bị thương, tên là Xuân, đã tới đây hồi chiều.

(Người hớt tóc tên là Xuân)

Nếu ta đánh dấu phết sau hai tiếng một người thì ta lại có thể hiểu rằng: “người đó hớt tóc cho bạn của người bị thương.” Nghĩa ấy hơi ép, nhưng không phải là vô lý.

6

Ta ít khi lầm lộn về những dấu?! và:, nhưng khó vạch rõ được chức vụ của những dấu, ;.

Phết và chấm phết có thể dùng thay nhau được. Chấm và chấm phết cũng vậy. Các nhà văn lớp trước như Phan Kế Bính, Nguyễn Hữu Tiến, Tản Đà còn dùng dấu phết thay cho dấu chấm nữa, nên câu văn dài lê thê. Trái lại, nhiều nhà cầm bút bây giờ có khuynh hướng dùng dấu chấm thay dấu phết, và văn của họ thành thứ văn “nhát gừng” hay là thứ văn “thuốc hoàn” (en pilules) như Moreux nói.

Sở dĩ vậy là vì không có một quy tắc gì nhất định trong cách chấm câu hết; ai muốn chấm sao thì chấm, mỗi tác giả chấm mỗi khác, mỗi thời cũng mỗi khác.

Các văn phạm gia bảo:

- Dấu phết phân hai tiếng hay hai mệnh đề.

- Dấu chấm phết phân hai vế trong một câu dài, nhưng nghĩa còn liên lạc với nhau.

- Dấu chấm đặt ở cuối một câu đã lọt hẳn nghĩa.

Nhưng thế nào là một câu đã lọn hẳn nghĩa? Khi tôi nói: “Tôi đi chơi”, nghĩa đã lọt chưa? Rồi tôi lại nói: “8 giờ tôi về”, nghĩa đã lọt chưa? Và tôi nên chấm câu ra sao?

Tôi đi chơi. Tám giờ tôi về.

Như vậy được không? Hay là phải dùng dấu ; như:

Tôi đi chơi; tám giờ tôi về.

Hay là chỉ dùng dấu phết:

Tôi đi chơi, tám giờ tôi về.

Trong cuốn “Để hiểu văn phạm”, chúng tôi đã viết:

“Theo tôi, khi ta muốn diễn một ý chính và nhiều ý phụ thêm nghĩa cho ý chính đó, hoặc chỉ trường hợp, nguyên nhân, kết quả... của ý chính đó, ta phải gom hết những ý ấy lại thành một câu, trừ khi nào ta muốn nhấn mạnh vào một ý phụ muốn cho nó thành ra quan trọng như ý chính thì lúc đó mới có thể tách nó ra thành một câu khác được. Nếu không có lẽ chính đáng ấy thì không nên ngắt câu”.

Thí dụ đoạn sau này trong bài: “Đêm trăng chơi hồ Tây” của Phan Kế Bính có thể sửa lại lối chấm câu được:

“Thuyền theo gió, từ từ mà đi, ra tới giữa khoảng mênh mông, tôi đứng trên đầu thuyền ngó quanh tả hữu. Đêm thanh cảnh vắng, bốn bề lặng ngắt như tờ. Chỉ còn nghe tiếng cá “tắc tắc” ở dưới đám rong, mấy tiếng chim kêu “oác oác” ở trong bụi niễng, cùng là văng vẳng tiếng chó sủa, tiếng gà gáy ở mấy nơi chòm xóm quanh hồ mà thôi”.

Câu đầu có hai ý chính: “Thuyền theo gió từ từ mà đi” và “Tôi đứng trên đầu thuyền ngó quanh tả hữu”. Còn ý “ra tới khoảng mênh mông” chỉ là ý phụ vào ý thứ nhì và chỉ thời gian. Tôi đứng trên đầu thuyền ngó quanh tả hữu lúc nào? Lúc thuyền ra tới giữa khoảng mênh mông. Giữa hai ý: “thuyền từ từ đi” và “tôi đứng trên đầu thuyền ngó quanh tả hữu”, không có dây liên lạc mật thiết gì để gom hai ý đó lại trong một câu hết. Vậy ta có thể cắt ra làm hai và chấm câu ở sau tiếng đi:

Thuyền theo gió từ từ mà đi. Ra tới khoảng mênh mông, tôi đứng trên đầu thuyền ngó quanh tả hữu.

Còn hai câu sau, mỗi câu chứa một ý: ý “bốn bề lặng ngắt như tờ” và ý “chỉ còn nghe tiếng cá, tiếng chim, tiếng chó sủa, gà gáy”, nhưng ý thứ nhì có thể coi là thêm nghĩa cho ý trên, nghĩa là ta có thể hiểu như vầy: ngoài tiếng cá, tiếng chim, tiếng chó sủa, gà gáy ở xa thì không còn tiếng gì khác nữa, cảnh thiệt là bốn bề lặng ngắt như tờ. Vậy hai ý đó liên lạc mật thiết với nhau: câu sau để hình dung cảnh tình mịch được phô bày trong câu trước và ta có thể bỏ dấu chấm ở sau tiếng tờ, thay vào đó một dấu chấm phết để nối hai câu làm một.

Cũng do lẽ ấy, ta không thể viết những câu nhát gừng như sau này:

Một ngày mùa hè.

Trời gần tối

Tôi đứng ở bờ sông

Ngó xa xa thấy một chiếc thuyền.

Ý chính trong bốn câu đó là: “Thấy một chiếc thuyền”. Thấy nó lúc nào? Ở đâu? Những ý: “một ngày mùa hè”, “trời gần tối”, “đứng trên bờ sông”, đều là những ý phụ chỉ trường hợp về thời gian và không gian, thêm nghĩa cho ý “thấy một chiếc thuyền”.

Vậy phải hợp bốn ý đó làm một và viết:

Một ngày hè, lúc trời gần tối, tôi đứng ở bờ sông, ngó xa xa thấy một chiếc thuyền.

Tuy thế, tôi nhắc lại, vẫn không có quy tắc gì nhất định cả. Có lúc ta nên viết câu dài, có lúc lại nên viết câu ngắn. Trong một chương sau, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề ấy.

- Ta rất nên thận trọng khi bỏ dấu phết, cho câu thêm rõ nghĩa.

Trên kia tôi đã kể một chuyện bên Mỹ để bạn thấy sự quan trọng của dấu phết giữa hai tiếng cây, trái ra sao.

Trước tiếng và, tùy nghĩa câu, có khi phải bỏ dấu phết, có khi không.

Anh ấy đã thi đậu và đã được bổ đi làm ở Châu Đốc (Không có dấu phết trước tiếng và).

Anh ấy đã thi đậu và nỗi vui của anh chưa bao giờ bồng bột như vậy (Không có dấu phết trước tiếng và)

Tôi đã tập leo cây, và lội tôi thích lắm (Phải có dấu phết trước tiếng và, nếu không thì người đọc có thể hiểu lầm rằng tôi đã tập leo cây và tập lội.)

- Người ta thường dùng hai dấu gạch ngang ở giữa một câu để thay cho hai dấu ngoặc đơn, như trong câu sau này của Triều Sơn.

“Người ta cảm thấy những bước vấp đầu tiên này - những bước vấp không tránh được - ở một vài bài như bài “Nhớ người thương binh”, cả bài “Sông Lô” của Phạm Duy”.

Những tiếng ở giữa hai dấu gạch ngang đó diễn một ý thêm nghĩa cho những tiếng “bước vấp đầu tiên”, nhưng ý đó chỉ là ý phụ, ta có thể bỏ đi được mà không sai nghĩa cả câu. Ta có thể dùng hai dấu ngoặc đơn thay cho những dấu gạch ngang đó, nhưng ý trong dấu ngoặc đơn không được nhấn mạnh bằng ý trong gạch ngang.

Bây giờ có một số tác giả chỉ dùng một dấu gạch ngang thôi, để cho độc giả chú ý tới những tiếng đứng sau, như:

“Họ chỉ cho ông chia lời thôi - nếu có lời”.

Dấu gạch ngang đó chỉ là một dấu phết, một dấu phết lớn vậy. Kể cũng nhiều tế nhị thiệt chứ!

Có điều đáng tiếc là trong hiện tình ấn loát ở nước ta, bạn có cẩn thận bỏ dấu tới mấy thì khi in xong, cũng sai rất nhiều.

Bây giờ xin bạn thử áp dụng những quy tắc ở trên và chấm câu đoạn văn này của Khái Hưng, trích trong cuốn “Hồn Bướm mơ Tiên”. Chấm rồi, bạn so sánh với lối chấm câu của tác giả ở cuối chương này trang 80 xem có hợp nhau không.

“Hai người đứng lại ngắm chùa lưng chừng một trái đồi cao mấy nóc nhà rêu mốc chen lẫn trong đám cây rậm rịt bốn góc gác chuông vượt lên trên từng lá xanh um chùa đẹp quá chú nhỉ vâng Long Giáng là một danh lam thắng cảnh ở vùng Bắc cụ tôi thường thuật cho tôi nghe rằng chùa này dựng lên từ đời Lý Nhân Tôn trước chỉ là một cái am nhỏ lợp gianh sau vì có một bà công chúa đến xin nương nhờ cửa Phật nên nhà vua mới cho sửa sang nguy nga như thế câu chuyện thụ pháp của công chúa thực tỏ ra rằng phép Phật huyền diệu biết bao chú làm ơn kể lại cho tôi nghe có được không vâng tôi xin thuật hầu ông nghe những lời cụ tôi đã kể”...

7

Muốn cho văn sáng sủa, ta nên tránh những lỗi sau này:

1. - Câu dài quá. Nhiều khi câu nên dài cho hơi văn được mạnh. Nhưng mới tập viết, còn thiếu kinh nghiệm, đừng nên viết những câu trên 5, 6 hàng vì viết tới hàng cuối thì ta quên mất lời lẽ trong hàng đầu và ý tứ hóa ra thiếu liên lạc, tối tăm.

Chẳng hạn đọc một lần câu dưới đây của Tôn Thất Lương trong bài tựa Truyện Hoa Tiên, bạn có hiểu tác giả nói gì không:

“Hai tiên sinh (Nguyễn Du và Nguyễn Huy Tự) tuy muốn lập tòa “lâu dài” của tinh hoa Việt Nam khác nhau, song dù xây dựng thế nào, cái tài liệu sở đắc cũng vẫn cùng chung một công phu đèn sách, và vẫn là phong lưu nhân vật nơi đài các văn chương do khí thiêng của non sông chung đúc, của Tạo Hóa phú bẩm, để dành cho kẻ hậu sinh theo đòi mà duy trì nền văn hiến tinh thuần cổ Việt”.

Tôi chỉ thấy tác giả đã lúng túng như vướng dây mà gỡ không ra.

Cái gì “vẫn là phong lưu nhân vật”. Ý ông muốn nói là hai tiên sinh đấy. Nhưng ông quên rằng ông vừa mới viết: “Cái tài liệu sở đắc cũng vẫn cùng chung một công phu đèn sách” và vì mệnh đề ấy mà độc giả tưởng tiếng vẫn sau cùng đi với những tiếng tài liệu sở đắc. Độc giả phải ngừng ở đó một chút và tự nghĩ: “là nhân vật thì tất phải là hai tiên sinh rồi”. Vậy tiếng vẫn thứ nhì phải đi với những tiếng hai tiên sinh.

Còn cái gì được để dành đó? Phong lưu nhân vật ư? Nếu vậy thì ngây ngô quá. Ai nói để dành người bao giờ? Hay là tài liệu sở đắc được để dành? Hay là tòa lâu đài?

Rồi “tài liệu sở đắc cùng chung một công phu đèn sách” là nghĩa gì? Hai tiên sinh cùng chung một công phu đèn sách chứ? Hoặc: điều sở đắc của hai tiên sinh đều do một công phu đèn sách chứ?

Lời thì nhiều mà ý thì rỗng. Sao không viết như vầy, có gọn và sáng sủa hơn không:

“Tác phẩm của hai tiên sinh tuy khác nhau, nhưng sở đắc của mỗi nhà đều do một nguồn gốc là Hán học, còn thiên tài thì đều do khí thiêng của non sông chung đúc. Cả hai đều có công với nền văn hiến tinh thuần cổ Việt”.

Dù thu lại như vậy thì vẫn còn một ý thừa. Ai chẳng biết rằng sở đắc của Nguyễn Du và Nguyễn Huy Tự đều do một nguồn gốc là Hán học? Vậy câu trên có thể rút lại làm:

“Hai tác phẩm tuy khác nhau nhưng thiên tài của mỗi nhà đều do khí thiêng của non sông chung đúc”.

Những câu này của Đoàn Như Khuê trong bài tựa “Luận ngữ cách ngôn” mới tràng giang hơn nữa:

“Bởi vậy tôi diễn dịch ra tập Luận ngữ cách ngôn này có ý để giúp bạn đồng ấu về sự học tập và thuộc lòng thay vào cuốn tiểu thuyết hoang đường, cùng phong hoa tuyết nguyệt, muốn cho người ta mỗi ngày đọc được một câu, hiểu được một nghĩa, lâu dần thấm thía, may cũng có bổ ích về đường tâm lý được một hai phần, không những thế, hoặc khi ra giao tiếp với người Âu, Mỹ nước ngoài, có hỏi đến đạo giáo của mình, thì cũng nhớ một hai câu đem ra giải thuyết được, đó cũng là nhắc lại cái đạo rất quí của nước nhà”.

Ta phải đào tận rễ những loại cỏ cú sum sê đó trong những bài văn của ta đi.

2. - Dùng nhiều điển tích khó hiểu và nhiều chữ Hán.

Tôi nhớ trong một bữa tiệc ở Chợ Lớn, thi sĩ Hư Chu đọc cho chúng tôi - một công chức, một họa sĩ và tôi - nghe một bài thơ của Vũ Hoàng Chương trong đó có 4 câu sau này:

Lạ mà quen đấy ơn ngòi bút,

Thăng với trầm ư? mặc cánh diều!

Vạn thủa đắng cay gì, đỗ vũ?

Một cành yên ổn chứ, tiêu liêu?

Đọc rồi hỏi chúng tôi:

Các anh thích 2 câu trên hay 2 câu dưới? Anh Đông Hồ thích 2 câu dưới lắm đấy nhé!

Chúng tôi đều khen 2 câu trên vì có hiểu tiêu liêu là cái gì đâu mà dám bàn tới?[4]

Nếu bạn làm thơ để cho những người sành thơ đọc (sành thơ là thuộc nhiều thơ Trung Hoa, thơ Pháp và lại làm thơ hay nữa, ở nước mình có được bao nhiêu người như thế nhỉ?), nếu bạn có ý đó thì bạn có muốn dùng những điển tích ít người hiểu, tùy lòng bạn. Sẽ có một số người thưởng thức và phục bạn đấy. Nhưng nếu viết cho hạng trung nhân đọc thì xin bạn chỉ dùng những điển thông thường và khi bắt buộc phải dùng một điển mà phần đông còn bỡ ngỡ thì nên giảng nó ra.

Nói vậy không phải là tôi chê Vũ Hoàng Chương đâu. Ông cảm hứng viết nên những câu thơ trên chứ chưa chắc đã có ý để cho mọi người đọc. Tôi chỉ muốn nhắc bạn rằng phần đông độc giả thời này rất ít hiểu những điển cổ, nhất là những điển của Trung Quốc.

Dùng điển là một phép hành văn rất quan trọng, trong một chương sau chúng tôi xin bàn lại cặn kẽ, ở đây chỉ xin tiếp tục xét những cách viết cho sáng sủa.

Thời buổi Âu, Mỹ này số người Việt thông Hán học mỗi ngày một thưa, bạn có may mắn được biết nhiều chữ nho, cũng chỉ nên dùng chút ít, đừng như một nhà giáo nọ, viết:

Số học sinh hiện diện để chỉ số học sinh có mặt.

Số học sinh khiếm diện để chỉ số học sinh vắng mặt.

Phụng biên để chỉ một bảng kê tên học sinh, (làm cho tôi nhớ đến những tiếng phụng mệnh và phụng chỉ!)

Giải quyết Có khi lại “giải khuyết” sửa để dịch tiếng solution (d’un problème)[5].

Tôi vẫn biết “hiện diện” với “khiếm diện” nghe kêu lắm! Nhưng thưa bạn, chúng ta viết văn cốt để cho độc giả dễ hiểu. Bởi vậy:

- Nếu có thể dùng tiếng Việt được[6] thì hãy dùng tiếng Việt đã.

- Nếu bắt buộc phải dùng tiếng Hán Việt thì trước hết nên dùng những tiếng đã được thông dụng.

- Nếu bắt buộc phải dùng những tiếng Hán Việt chưa được thông dụng thì nên giải nghĩa ra.

- Và điều này quan trọng nhất: trước khi dùng một tiếng Hán Việt, nên tra nghĩa cho kỹ.

3. - Dùng nhiều danh từ chuyên môn là điều không nên; nếu phải dùng thì nên giảng ra.

Ví dụ bạn khuyên độc giả thở bằng hoành cách mạc thì bạn phải viết tiếp ngay: Hoành cách mạc là một bắp thịt mỏng, tựa như cái màng, chia thân ra làm hai phần, phần trên có phổi, tim, phần dưới là gan, bao tử, ruột, thận, bong bóng... Bình thường thì nó vòng lên như cái chậu úp. Nhưng nếu ta hít mạnh cho không khí vào cả những chỗ thấp nhất của phổi thì màng đó hạ xuống cho bụng ta phồng lên. Khi ta thở ra, màng đó lại đưa lên và bụng ta lại giẹp xuống.

4. - Đừng viết những câu thiếu nghĩa.

Như một tác giả nọ bàn về bài “Qua Đèo Ngang” của bà Thanh Quan, viết:

“Nhưng âm nhạc đã lấp được cái lỗi trong thơ”. Cái lỗi nào? Nếu có một lỗi thì phải viết:

“Nhưng âm nhạc đã lấp được hết các lỗi trong thơ”.

Ở trang đầu một tờ báo hằng ngày, tôi thấy một cái “tít” in chữ lớn như sau này:

“Ngài thủ tướng tuyên bố quan trọng khi ở Bắc Việt về.”

Tuyên bố cái gì?

Cái gì quan trọng? Lời tuyên bố quan trọng? Hay tình hình ở Bắc Việt quan trọng?

5. - Tránh những lối đặt câu có thể làm cho độc giả hiểu lầm.

Muốn vậy phải biết cách đảo ngữ để cho những tiếng bổ túc đứng kế ngay những tiếng được bổ túc.

Một học sinh viết:

“Máu me đầy người, nó ghì chặt kẻ thù của nó”.

Em ấy muốn nói “kẻ thù của nó máu me đầy người” mà viết như vậy thì bạn và tôi đều hiểu rằng chính “nó máu me đầy người”

“Tôi thấy một điều ở nhà anh ấy nó làm cho tôi đau lòng”.

Cái gì làm cho tôi đau lòng? Nếu là một điều thì phải sửa lại là:

“Tôi thấy ở nhà anh ấy một điều nó làm cho tôi đau lòng”.

Các nhà văn cũng có khi mắc lỗi ấy, đặt sai vị trí của một vài tiếng, khiến cho câu văn tối nghĩa. Đào Duy Anh trong cuốn “Việt Nam văn hóa sử cương” viết:

“Song đồng thời tư tưởng mới và trí thức khoa học cũng truyền bá mỗi ngày một rộng; lại thêm phong trào duy tân đương tự thành thị tràn về hương thôn mà các phần tử thanh niên ở nhà quê đã thấy ở nhiều nơi tiếp ứng, vậy ta có thể mong rằng phạm vi hoạt động của các phương thuật phải thu nhỏ lại dần, rồi hẳn có ngày không xa, bọn phương sĩ sẽ khó sinh nhai lắm.”

Trước hết câu ấy lượt thượt quá, nhưng lỗi lớn nhất ở hàng: “ Các phần tử thanh niên ở nhà quê đã thấy ở nhiều nơi tiếp ứng”

Viết như vậy thì độc giả phải tự hỏi: “thấy tiếp ứng cái gì?”

Tôi tưởng ông Đào muốn viết:

“Người ta đã thấy các phần tử thanh niên ở nhiều nơi tại thôn quê tiếp ứng phong trào đó. “

Vậy ta phải sửa:

“... lại thêm phong trào duy tân đương tự thành thị tràn về hương thôn và được thanh niên ở nhiều làng tiếp ứng”.

Có lần tôi viết câu này:

“Tới nơi, chủ nhà vừa đi khỏi”

Một anh bạn tôi đọc, chê sai văn phạm vì như vậy là “chủ nhà tới nơi”, chứ không phải là tôi tới noi.

Xét theo văn phạm Pháp thì quả là một lỗi nặng. Nhưng có cần gì phải rập Việt ngữ vào đúng văn phạm của người không? Câu ấy rất rõ nghĩa, không ai hiểu lầm được; cần gì phải thêm hai tiếng “tôi thấy” vào nữa:

“Tới nơi, tôi thấy chủ nhà vừa đi khỏi.” vì không ai chứng minh được cho tôi rằng tiếng “tới” đó là “participe présent” hay “passé” mà bảo nó đi với chủ từ trong câu là “chủ nhà”.

Ta có thể nói trong câu ấy có hai tiếng: “khi tôi” ẩn thể ở trước tiếng “tới”. Phép “ẩn thể” thường dùng trong văn phạm Việt Nam nhiều hơn trong văn phạm Pháp.

6. - Những tiếng như, hơn, hay cũng dễ gây ra nhiều sự hiểu lầm. Câu:

“Tôi không tin như anh rằng Tiếng Việt nghèo nàn” nghĩa là: anh tin tiếng Việt nghèo nàn.

hay: anh không tin tiếng Việt nghèo nàn?

- “Tôi biết anh Bửu rõ hơn anh Quang.”

Câu ấy có hai nghĩa:

- Tôi biết anh Bửu rõ hơn là anh Quang biết anh Bửu.

- Tôi biết anh Bửu rõ hơn là tôi biết anh Quang.

Câu “Tôi yêu anh hơn nó” cũng phạm lỗi tối nghĩa ấy.

- Một kí giả viết trong một bài điều tra về các chất ma túy:

“Tất cả y sư trong thành đều được bọn đồ đệ của thuốc phiện tới viếng - hoặc nhiều hoặc ít, tùy theo mỗi người tỏ ra nghiêm khắc hay thương hại dân ghiền”.

Mới đọc qua, tôi hiểu rằng những y sĩ tỏ ra nghiêm khắc thường thương hại dân ghiền. Nhưng nghĩa đó vô lý và tiếng hay ở gần cuối câu phải đổi làm tiếng hoặc cho rõ nghĩa hơn, vì hay còn có nghĩa là thường nữa.

Nếu dùng tiếng hoặc sợ mắc lỗi điệp tự thì có thể bỏ hai tiếng hoặc ở trên đi.

Nhưng sửa như vậy vẫn chưa được. Người ta nói: “nghiêm khắc với ai” và “thương hại ai”. Nếu viết: “tùy theo mỗi người tỏ ra nghiêm khắc hoặc thương hại dân ghiền” thì ta tưởng là nghiêm khắc dân ghiền: vô nghĩa.

Lại phải đòi:

“tùy theo mỗi người tỏ ra nghiêm khắc hoặc dễ dãi với dân ghiền”.

7. - Nhiều khi vì vô ý mà lời ta tối nghĩa. Lại sở Bưu điện, nếu bạn nói:

- Xin thầy bán cho tôi ba con cò (tem) đồng rưỡi, thì thế nào người bán cũng hỏi lại:

- Ba con, mỗi con 1 đồng 50 hay cả 3 con 1 đồng 50?

Rồi bạn phải mất công trả lời. Sao không nói ngay:

- Xin thầy cho bán cho tôi 3 con tem, mỗi con 1 đồng 50 (hoặc mỗi con 0 đồng 50).

Một vài tác giả Pháp rất nghiêm khắc, bảo không được viết:

Từ 3 đến 4000 đồng.

mà phải viết: Từ 3000 đến 4000 đồng.

Vì “từ 3 đến 4000 đồng” có nghĩa là từ 3 đồng đến 4000 đồng.

Lời đó có lý. Nhưng từ trước tới nay ta vẫn nhận rằng “từ 3 tới 4000 đồng” nghĩa là “từ 3000 tới 4000 đồng” rồi nên câu ấy không hẳn là tối nghĩa. Tuy vậy, trong những tờ giao kèo, ta nên thận trọng mà viết:

Từ 3000 đến 4000 đồng

hoặc từ 3 tới 4000 đồng,

để tránh những sự rắc rối mất thì giờ.

- Chúng ta thường dùng dấu phết ở giữa những số 2 và 3 trong câu sau này:

Chiếc đồng hồ đó đáng giá 2, 3 trăm đồng.

Người Mỹ khuyên dùng dấu gạch ngang cho rõ nghĩa hơn:

Chiếc đồng hồ đó đáng giá 2 - 3 trăm đồng.

Vì dùng dấu phết, ta có thể hiểu lầm là: 2 trăm 3 chục đồng, cũng như 5, 7 th. nghĩa là 5 thước 7 tấc, 3,9 đồng nghĩa là 3 đồng 9 cắc

8. - Xin đừng viết nhũng câu vô nghĩa, như:

- “Sống tức là chẳng lóe mắt về những chân lý nẩy lửa mà cao xanh đem ném xuống cõi trần”

- “Y mà khỏi thì lần này khỏi điên. Y mà có mệnh nào thì y cũng là con ma không điên”

- “Lúc ấy thì hình như có một sức mạnh gì dùng thính giác[7] trong người làm dẫn tuyến phi nước đại lên mắt, bắt ai cũng phải chăm chú nhìn.”

- “Sự quyết định của các bà các cô thường là những sự không quyết định.”

Những câu đó đều của Lê văn Trương trong cuốn “Một trái tim”. Không ai hiểu tác giả muốn nói gì hết: Thiệt là những câu thai.

9. - Nhiều khi, câu văn rất sáng sủa mà độc giả có thể hiểu lầm ý của bạn.

Trong bài: “Để góp vào sự xây dựng một văn chương lành mạnh”, Thiên Giang viết:

“Vào khoảng 1929 - 30, vụ bạo động Yên Bái thất bại và một số chiến sĩ Quốc gia cách mạng rụng đầu được ít lâu thì quyển Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách lại được tái bản và lần này cuốn tiểu thuyết lãng mạn đầu tiên ấy được công chúng đọc tiểu thuyết lúc ấy tiếp đón như một người bạn lòng.

Từ 1933 trở về sau, tức là sau khi các phong trào xã hội trong xứ được dẹp yên thì công chúng đọc tiểu thuyết ấy lại đặt thêm lên đầu giường mình tờ báo Phong Hóa và các sản phẩm của nhóm Tự Lực văn đoàn và của nhiều tác giả lãng mạn khác”.

Đọc xong đoạn ấy, tôi ngờ ông có ý cho rằng phong trào ham mê tiểu thuyết lãng mạn do vụ thất bại Yên Bái mà bộc phát và tôi viết thư hỏi ông. Ông đáp:

“Tôi chỉ muốn ghi lại một sự nhận xét chứ không bảo sự bộc phát của phong trào đọc tiểu thuyết lãng mạn là quả, mà sự thất bại của vụ bạo động Yên Bái là nhân.”

Vậy tôi đã có lỗi đọc vội và hiểu lầm ông. Song sự hiểu lầm ấy cũng rất tự nhiên. Khi có hai việc A và B xảy ra, A trước, B sau, nếu B có thể là kết quả của A được thì ta chỉ cần ghi A rồi tới B, cũng đủ cho độc giả nghi rằng ta cho A là nhân, B là quả.

Chẳng hạn tôi nói: “Sáng nay tôi ra ngõ gặp gái, cả ngày làm việc gì cũng hỏng”, thì chắc bạn ngờ tôi tin dị đoan, cho ra ngõ gặp gái là xui. Tôi không hề dùng hai tiếng cho nên ở đầu mệnh đề thứ nhì mà tự nhiên bạn hiểu rằng có hai tiếng ấy.

Tôi đã nhiều lần mắc lỗi sơ sót đó, mà chưa thấy cuốn sách nào - cả Pháp lẫn Việt - khuyên tôi tránh nó hết, nên xin chép lại đây để các bạn chiêm nghiệm mà thận trọng trong lối phô diễn tư tưởng.

* Cách chấm câu của Khái Hưng (coi trang 52).

Hai người đứng lại ngắm chùa. Lưng chừng một trái đồi cao, mấy nóc nhà rêu mốc chen lẫn trong đám cây rậm rịt, bốn góc gác chuông vượt lên trên từng lá xanh um.

- Chùa đẹp quả, chú nhỉ?

- Vâng, Long Giáng là một danh lam thắng cảnh ở vùng Bắc. Cụ tôi thường thuật cho tôi nghe rằng chùa này dựng lên từ đời Lý Nhân Tôn. Trước chỉ là một cái am nhỏ lợp gianh, sau vì có một bà công chúa đến xin nương nhờ cửa Phật, nên nhà vua mới cho sửa sang nguy nga như thế. Câu truyện thụ pháp của công chúa thực tỏ ra rằng phép Phật huyền diệu biết bao.

- Chú làm ơn kể lại cho tôi nghe có được không?

- Vâng, tôi xin thuật hầu ông nghe những lời cụ tôi đã kể.

TÓM TẮT

1. - Viết văn đề cho người khác hiểu chứ không phải để ra thai.

2. - Các văn sĩ đại tài như Molière, Bạch Cư Dị cũng nhận rằng sự sáng sửa là một đức rất khó vì “Cả những người thông minh nhất cũng hiểu ta rất ít”.

3. - Muốn cho văn được rõ ràng, ta phải:

- Nhớ trình độ hiểu biết của những độc giả sẽ đọc văn ta.

- Lý luận chặt chẽ vì ý có minh bạch thì lời mới sáng sủa.

- Chú trọng tới cách chấm câu.

- Đừng viết những câu dài quá, lúng túng.

- Dùng ít điển Trung Quốc, ít chữ Hán, ít danh từ chuyên môn.

- Tránh những câu vô nghĩa hoặc thiếu nghĩa.

- Thận trọng khi dùng những tiếng có thể làm cho độc giả hiểu lầm như: hơn, hay, như...

Chú thích:

[1] Tối om như cái hũ nút kín vậy

[2] Nhan đề bài thơ đó là: “La vive du capricorne”; đăng trong Figaro Littéraire, 28. IX 46, trích trong Théorie de l’Art et des genres littéraires của J. Subervill.

[3] Tiếng phi này có nghĩa là tên Phi mà cũng có nghĩa là “không phải”. Khi viết, người trung Hoa không làm dấu gì chỉ nó là tên riêng hết nên có thể nó nghĩa thứ nhì.

[4] Đỗ vũ tức con cuốc cuốc (cuốc kêu mùa hè). Tiêu liêu tức con chiền chiện, một loại chim bé nhỏ.

[5] Chú thích ở dưới, trong sách đặt sau 2 chữ “Giải quyết” – tôi đã sửa lại. Và có lẽ cũng nên sửa “Giải quyết Có khi lại “giải khuyết” sửa để dịch…” lại thành: “Giải quyết có khi sửa lại “giải khuyết” để dịch…”. (Goldfish).

[6] Tôi nhấn mạnh vào những tiếng “nếu có thể dùng tiếng Việt được” vì có khi ta phải dùng tiếng Hán Việt cho thêm trang nhã hoặc gọn. (Coi thêm đoạn 5 chương 5).

[7] Tuần báo “Mới” số 8 ra ngày 10-1-53.