CHƯƠNG V ĐỨC TINH XÁC
1.- Lời lẽ phải tinh xác. Tài liệu phải đích xác.
2.- Vài gương gọt văn của cổ nhân.
3.- Tài dùng tiếng của Nguyễn Du và vài văn sĩ hiện đại.
4.- So sánh hai bài đều tả cảnh bình minh.
4.- Muốn cho dụng ngữ được tinh xác:
1. dụng ngữ phải phong phú.
2. phải hiểu rõ nghĩa những tiếng và viết trúng chánh tả.
3. đừng biếng nhác mà phải kiếm tiếng cho thiệt đúng.
4. để ý tới những tiếng đồng nghĩa.
6.- Một cách tập dùng tiếng cho đúng.
7.- Sự mơ hồ có khi là một quy tắc hành văn..
1
Một yếu tố của đức sáng sủa là sự dùng tiếng cho đúng.
Muốn kêu một chiếc xe thổ mộ mà bạn bảo người hầu:
- Ra coi xem có chiếc xe ngựa nào không?
Thì anh ta có thể vẫy một chiếc xe cá lại vì xe cá cũng kéo bằng ngựa. Muốn cậy bạn ra sở Bưu Điện làm giùm một việc mà tôi lại nói:
- “Bạn làm ơn lại Sở Thông tin gởi cho tôi gói sách này” thì bạn ấy chắc phải ngẩn ngơ.
Lời phải cho đúng mà ý cũng phải đích xác nữa. Nhận được của ai một tấm thiếp có hàng chữ này:
“Ngày mai đợi tôi ở đường Nguyền Trãi.” thì bạn có bực mình không?
Trong thiếp không đề ngày gởi thì làm sao biết được “ngày mai” là ngày nào? Đường Nguyễn Trãi dài 5-6 trăm thước, đợi ở đâu? Đầu đường hay cuối đường? Và đợi suốt ngày ư?
Những trường hợp như vậy xảy ra thường lắm. Mới rồi tôi nhận được một tờ thông tri có câu: “Các công chức ai muốn đi đưa ma ông X thì xin ghi tên vào đây” mà không cho biết đám tang cử hành vào giờ nào ở đường nào, số mấy, làm cho tôi phải sai người chạy đi hỏi.
Hàn Dũ đời Đường nhận được một bức thư báo tin người cháu của ông là Thập Nhị Lang chết, mà không cho hay chết ngày nào, tháng nào, vì bệnh gì, làm cho ông càng thêm suy nghĩ, đau lòng, viết nên bài “Văn tế Thập Nhị Lang”, lời lẽ vô cùng cảm động.
Sự vô tâm của loài người thiệt mênh mông hơn biển cả.
2
Hồi xưa, vật dục và nhu cầu còn ít, ngày tháng tựa như còn dài, các văn nhân có nhiều thì giờ để tìm tiếng cho tinh xác, nhờ vậy tác phẩm của họ thường có giá trị.
Người ta kể chuyện đời Hán[1], Lữ Bất Vi nhờ các môn khách của ông soạn bộ “Lữ thị xuân thu”, rồi sai người đem bày ở cửa thành tại kinh đô để cho các văn nhân, học giả trong nước có thể lại coi được. Ông hứa thưởng ngàn lượng vàng cho người nào sửa được một tiếng trong sách.
Họ Lữ làm tể tướng dưới triều Tần Thủy Hoàng, - một thời đại chuyên chế - lại là bực thượng phụ[2], quyền muốn khuynh loát cả nhà vua thì ai dám sửa kia chứ! Nhưng câu chuyện ấy cũng tỏ rằng người xưa đã tốn công cân nhắc từng tiếng vậy.
Đời Đường thì có anh chàng Giả Đảo than:
Nhị cú tam niên đắc,
Ngâm thành, song lệ lưu.
(Ba năm mới làm được hai câu thơ, Ngâm xong, hai dòng lệ chảy xuống).
Ngày nay có ai dám bày một trang sách của mình - nội một trang thôi - để thiên hạ chỉ trích không? Bạn nào kỹ lưỡng lắm tưởng cũng chỉ đến cách đưa tác phẩm cho một người thân nhờ phê bình qua loa, rồi theo đó sửa chữa lại trước khi xuất bản. Và chắc không có một nhà văn nào bỏ ra hai ngày để viết vài hàng như Gustave Flaubert. Mỗi ngày ông làm việc 7 giờ mà có khi 5 ngày ông mới viết xong 1 trang.
Trên bàn viết của ông luôn luôn có một cuốn tự điển và ông đi ngủ với một cuốn văn phạm ở bên mình. Y như Giả Đảo, khi làm được một câu, hoặc một đoạn đắc ý, ông sung sướng tới nỗi đôi hàng lệ ròng ròng. Ông viết cho một người bạn:
“Thứ tư trước tôi phải đứng dậy đi kiếm khăn mùi soa; nước mắt chảy trên mặt tôi. Trong khi tôi viết, tôi tự cảm động, tôi sung sướng hưởng cái cảm xúc của ý tưởng, cái tinh xác của câu văn đã diễn được đủ ý và hưởng nỗi khoan khoái đã kiếm được câu ấy.”
Ông chịu tốn công như vậy vì ông nghĩ:
“Dù ta muốn nói điều gì đi nữa, cũng chỉ có mỗi một tiếng để diễn điều đó thôi, chỉ có mỗi một động từ để làm cho điều đó hóa ra có sinh khí và mỗi một trạng từ để tả nó. Cần phải kiếm cho được tiếng ấy và đừng lấy làm mãn ý khi mới kiếm được những tiếng tương tự”.
La Bruyère cũng nghĩ như ông:
“Trong số hết thảy các từ ngữ có thể diễn được một ý độc nhất của ta, chỉ có mỗi một từ ngữ là đúng: khi nói hoặc viết, người ta không luôn luôn kiếm thấy nó đâu, nhưng nó vẫn có.”
Còn những thiên tài như La Fontaine, Buffon, Chateaubriand thì người nào cũng sửa tác phẩm của mình 5 - 6 lần, có khi 10 lần, 18 lần.
3
Vì thiếu tài liệu, chúng ta không thể biết các thi hào như Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Ôn Như Hầu, Nguyễn Huy Tự... gọt văn ra sao. Nhưng ta có thể chắc rằng các cụ, nhất là Tố Như đã phải tốn công phu lắm, vì dù tả cảnh, tả tình, tả người, tiên sinh cũng dùng những tiếng rất tinh xác.
Cảnh:
Dưới dòng nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang,
Sè sè nắm đất bên đàng.
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Màu sắc:
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.
Thanh âm:
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
Người sống:
Mã Giám Sinh:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Tú Bà:
Thoắt trông nhờn nhợt màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao!
Người trong giấc chiêm bao:
Đạm Tiên:
Sương in mặt tuyết pha thân,
Sen vàng lãng đãng như gần như xa
Tình:
Than thở về cảnh ngộ:
Phận bèo bao quản nước sa,
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh,
Canh khuya thân gái dặm trường,
Phần e đường sá, phần thương dãi dầu.
Buồn vì nhớ nhà:
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã, lại mai hôn hoàng.
Nhớ chồng:
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời.
Đã mòn con mắt, phương trời đăm đăm.
Trong những câu thơ ấy, khó mà đổi được một tiếng. Tôi đã cho in đậm những tiếng tinh xác, nhưng thiệt ra có tiếng nào là không có giá trị? Chẳng hạn câu:
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
Đành rằng hồn câu thơ ở trong tiếng lênh đênh lặp lại 2 lần, nhưng những tiếng đâu nữa, cũng là há không phải là đắc thế?
Vài nhà văn hiện đại cũng khéo dùng tiếng như Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Tuân... nhưng tác phẩm của họ viết thường không được đều tay.
Nam Cao chuyên tả người. Xin bạn đọc đoạn sau này tả thầy lang Rận, xem văn tài của ông có kém Flaubert không:
“Anh chàng có cái mặt dơ dáng thật. Mặt gì mà nặng chình chĩnh như mặt người phù, da như da con tằm bủng, lại lấm tấm đầy những tàn nhang. Cái trán ngắn ngủn ngắn ngùn, lại gồ lên. Đôi mắt thì híp lại như mắt con lợn sề. Môi rất nở, cong lên, bịt gần kín hai lỗ mũi con con, khiến cho anh ta thở khò khè. Nhưng cũng chưa tệ bằng lúc anh cười. Bởi vì lúc anh cười thì cái trán chau chau, đôi mắt đã híp lại híp thêm, hai mí gần như dính tịt lại với nhau, môi càng lớn thêm lên, mà tiếng cười, toàn bằng hơi thờ, thoát ra khìn khịt” (Phổ thông bán nguyệt san: 1944).
Tô Hoài chuyên tả vật, xuất sắc như Jules Renard. “Những con ngan[3] nhỏ mới nở được ba hôm chỉ to hơn cái trứng một ít. Chúng có bộ lông vàng óng - một màu vàng đáng yêu - như màu những con tơ nõn mới guồng. Nhưng đẹp nhất là đôi mắt với cái mỏ. Đôi mắt chỉ bằng hột cườm, đen nhánh hạt huyền, lúc nào cũng long lanh đưa đi đưa lại như có nước, làm hoạt động hai con ngươi bóng mờ. Một cái mỏ màu nhung hươu vừa bằng ngón tay đứa bé mới đẻ và có lẽ cũng mềm như thế, mọc ngăn ngắn đằng trước, cái đầu xinh xinh vàng nuỗn và ở dưới lũn chũn hai cái chân bé tí màu đỏ hồng. Chúng nó lýp nhíp khe khẽ và lẩn quẩn ở dưới chân mẹ. Mụ ngan mẹ lờ đờ như một người đàn bà đụn[4] và hiền, lúc nào cũng như mải nghỉ ngợi một điều gì ờ tận đâu đâu. Thỉnh thoảng mụ kêu kiu kiu, dụi mỏ vào lũ con và lúc lắc cái đuôi”.
(0 chuột)
Còn gây lên cái vang bóng thời xưa thì không ai bằng Nguyễn Tuân. Ta đương ở trong một nơi bụi mù và khét nghẹt mùi xăng mà ông kéo ta về dĩ vãng, cho ta thở cái không khí mát mẻ phưng phức mùi hoa bưởi, hoa lan cùng mùi mực tàu giấy bản. Đọc đoạn sau này, tôi mê man tưởng tượng lại cảnh phố Hàng Giấy nửa thế kỉ trước mà thiết tha hoài cổ.
“Có một lần, một người học trò vào hàng cô (Phương) chọn bút. Cô đưa bút Song Lan, Thanh Chi, Nhất Chi, rồi Kiều Lan, rồi đến Lan Trục, người thư sinh mặt trắng rút tháp bút, cho bút vào miệng, ấn tòe đầu bút vào lòng bàn tay xòe, để thử soi lông bút lên ánh sáng có đến mây mươi lần rồi mà cứ lắc đầu hoài, chê xấu. Anh chàng nhất định hỏi cho được cái thứ bút Tảo thiên quân mới chịu lấy. Thấy thầy khóa ăn mặc đồ vải xềnh xoàng, cô Phương ra giọng bỉ thử: “Có Tảo thiên quân lông trắng, nhưng mà những hai quan một chiếc.” Tiếp cái nguýt dài của cô hàng sách càng ngồi giải thẻ thêm ra, người thư sinh mặt trắng chỉ tay lên tít trên đầu tủ: “Phải, Tảo Thiên Quân lông trắng, có thứ nào những năm sáu quan, cô lấy cho tôi chọn”. Lúc nối câu này thầy khóa cố dằn giọng vào chữ “những” có ý bảo thầm cho nhà hàng biết rằng nên khinh người vừa chứ. Cô Phương bẽn lẽn, nhưng cũng cô đứng dậy lấy thứ bút quí cất mãi trên cùng tột lớp tủ, đưa cho thầy khóa, chỉ đợi nếu anh chàng mua không nổi chiếc nào thì sẽ mắng một trận như tát nước vào mặt cho bỏ ghét. Lấy luôn một lúc bốn chiếc Tảo thiên quân, trả tiền xong xuôi, người thư sinh mặt trắng dúng một ngòi bút mới vào nghiên mực, vờ thử ngòi bút vào một mảnh giấy nơi mặt hàng. Những giòng chữ viết rất tốt kia, sự thật, chỉ là một bài thơ chữ nói mát mẻ cô hàng có tính chỏng lỏn.”
(Vang bóng một thời)
4
Muốn thấy sự dùng tiếng tinh xác làm nổi bật bài văn ra sao, xin bạn so sánh hai đoạn dưới đây đều tả cảnh bình minh hết.
Một buổi sáng mùa hè:
“Dưới ánh triều dương, cảnh vật tươi cười, thảnh thơi, sung sướng, sắc cây xanh bóng, điềm những màu hoa rỡ ràng, nổi rõ trên nền mây trắng rải rác khắp bầu trời trong vắt.
Đàn trẻ nô giỡn trên cánh đồng cỏ, tranh nhau đuổi bắt bươm bướm, chuồn chuồn. Những tiếng reo hò lẫn tiếng chim đua hót, rung động làn không khí êm đềm.
Người ta kéo nhau lên nương, xuống ruộng, cày cuốc, phát cỏ, xén bờ. Việc làm tuy mệt nhọc, nhưng thỉnh thoảng một tiếng hát cất lên, nhẹ nhõm, ngân dài ra như một đường tơ êm dịu, thì ai nấy đều lại thư thái cả tâm hồn”.
Lan Khai (Tiếng gọi của rừng thẳm)
Văn nhẹ nhàng, hợp với cảnh êm đềm của buổi sáng. Những tiếng: thảnh thơi, ngân dài ra như một đường tơ, cũng là khéo dùng. Nhưng ta vẫn bất mãn vì tiếng rỡ ràng mơ hồ quá, và những tiếng nền mây trắng, trời trong vắt, đã nhiều người dùng rồi mà cũng chưa thiệt đúng, tuy không phải là sai. Cảnh đường rừng của Lan Khai nào có khác chi cảnh đường xuôi và nếu cắt bỏ đoạn dưới, từ những tiếng “Người ta kéo lên nương”, thì dùng bài đó để tả buổi bình minh Long Xuyên này cũng được.
Cảnh bể Sầm Sơn buổi sáng:
“Hôm sau, khi Hiền ra biển thì mặt trời vừa mọc và ẩn sau đám mây tím giải ngang trên làn nước đủ màu, từ màu lam sẫm, lam nhạt ngoài xa cho đến màu hồng, màu vàng ở gần bể.
Trên nền trời sắc da cam chói lợi, những vạch đỏ thắm, xòe ra như bộ nan quạt làm bằng ngọc lựu.
Quay lại nhìn về phía thành phố sầm Sơn, ánh sáng đèn điện chưa tắt và nhợt nhạt lấp ló trong lá phi lao[5] như những ngôi sao buổi sớm mai lò mờ sau làn mây mỏng”.
Khái Hưng (Trống Mái)
Trong đoạn này, tác giả đã vẽ chứ không phải viết nữa. Bao nhiêu màu sắc rực rỡ và linh động hiện trước mắt ta. Cảnh bình minh đó rõ ràng là cảnh ở một bờ biển có phi lao. Ở trong đồng không bao giờ ta được trông thấy những màu trời như vậy. Khi đọc, tôi bồi hồi nhớ lại những lần tôi nghỉ mát ở Đồ Sơn hoặc Nha Trang, nhờ những tiếng dùng rất đúng như: màu lam sẫm, màu da cam, xòe ra như bộ nan quạt làm bằng ngọc lựu, nhợt nhạt lấp ló trong lá phi lao...
5
Vậy có dùng tiếng đúng thì văn ta mới rõ ràng, sắc sảo như những nét vẽ, nét khắc, nếu không thì từ cảnh vật đến tình cảm phô diễn đều mờ mờ, đùng đục. Mà chúng ta ít khi dùng tiếng cho tinh xác lắm. Có nhiều nguyên nhân.
1.- Dụng ngữ của ta không phong phú.
Nếu là một nhà văn tầm thường tả một ông lang như Nam Cao đã tả, tất sẽ viết: mặt thịt, da xanh, chứ không biết dùng những tiếng: mặt nặng chình chĩnh như mặt người phù, da con tằm bủng...
Phải như Tô Hoài, sinh trưởng ở một làng nuôi tằm và dệt tơ mới biết viết được: vàng nuỗn, vàng óng như những con tơ nõn mới guồng. Trong đoạn tả bầy ngan ở trên, những tiếng đen nhánh hạt huyền, màu nhung hươu, lũn chũn, lýp nhíp, kiu kiu, tỏ rằng tác giả vừa khéo nhận xét vừa có một dụng ngữ rất phong phú.
Và có bao nhiêu văn sĩ được biết như Nguyễn Tuân những tên bút Song Lan, Thanh Chi, Kiều Lan, Nhất Chi, Lan Trúc, Tảo Thiên Quân, với những tiếng tháp bút, ấn tòe ngòi bút, ngồi giãi thẻ, chỏng lỏn...?
Muốn cho dụng ngữ được phong phú, ta phải đọc nhiều, nghe nhiều, từng trải nhiều, du lịch nhiều và thường dùng tự điển.
Gustave Flaubert, Chateaubriand, Tư Mã Thiên, Tô Đông Pha[6], Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ... tất cả các văn nhân nổi tiếng về tài dùng tiếng đều là những con mọt sách và đã ngao du hoặc phiêu bạt đó đây, đã tiếp xúc với người của bốn phương, đã thưởng ngoạn những kỳ quan của Vũ Trụ.
Còn Anatole France và Georges Duhamel thì đều có một cuốn tự điển ở bên cạnh trong khi viết văn. Anatote France mê tự điển và Georges Duhamel thì mỗi ngày mở tự điển cả chục lần.
Nhưng phải lựa những tự điển có giá trị vì những tự điển loại bỏ túi, định nghĩa bằng những tiếng đồng nghĩa như; Chia là san, xẻ, phân... có hại hơn là có ích. Nó không giúp ta hiểu rõ nguồn gốc và tinh nghĩa của từng tiếng mà còn tập cho ta thói mơ hồ, đáng lẽ phải kiếm một tiếng thiệt đúng thì chỉ kiếm một tiếng gần giống thôi.
Tiếc rằng chúng ta chưa có một bộ tự điển nào hoàn toàn, đáng ví với cuốn Larousse du 20è siècle của Pháp. Nhưng có thể tạm dùng những cuốn sau này:
- Việt Nam tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức
- Hán Việt tự điển của Đào Duy Anh
- Việt ngữ tinh nghĩa tự điển của Nguyễn Văn Minh
- Tầm nguyên tự điển của Lê Văn Hòe
- Thành ngữ điển tích của Diên Hương.
2. Ta không rõ nghĩa những tiếng ta dùng và viết sai chánh tả.
Mỗi khi ta còn ngờ nghĩa một tiếng nào thì phải tra ngay tự điển. Biết bao nhà văn bây giờ dùng lầm:
khoản
chú ý
bản
tốc hành
sàn sàn
lỗi lạc
xán lạn
man mát
biểu ngữ
mục đích
sở dĩ
tuyệt điệu
nhu cầu
phong thanh
đạt
hủ tục
sáp nhập
thuỷ mặc
cảm khái
tự tại
tai bay hoạ gió
nhược điểm
tóc hạt da mồi
ý hợp tâm đầu
với
với
với
với
với
với
với
với
với
với
với
với
với
với
với
với
với
với
với
với
với
với
với
với
khoảng
chủ ý
bảng
tốc thành
sàn sạt
lỗi lầm
sáng lạng (vô nghĩa)
man mác
biển ngữ (n.t)
mục kích
khả dĩ
tuyệt diệu
nhu cần (n.t)
phong phanh (nt)
đoạt
thủ tục
sát nhập (n.t)
thuỷ mạc (n.t)
cảm khoái (n.t)
tự toại (n.t)
tay bay hoạ gởi (n.t)
yếu điểm
tóc bạc da mồi
ý hợp tâm đầu
Xin bạn kiếm tự điển và tra nghĩa những tiếng đó nếu chưa biết đích xác.
Nhiều nhà cầm bút còn mắc tật cẩu thả về chánh tả. Họ nghĩ: “Cái trò con nít đó quan trọng gì mà phải để ý tới? Baudelaire viết poète là poete mà thơ của ông vẫn bất hủ. Victor Hugo có khi viết sai chánh tả mà vẫn được bia đá tượng đồng”[7]
Vâng. Nhưng tại sao ta không bắt chước cái hay mà lại bắt chước cái dở? Khi chúng ta chưa phải là Baudelaire, là Vicror Hugo thì độc giả không khoan hồng với ta đâu vì viết sai chính tả có thể làm cho họ hiểu lầm và luôn luôn bực mình. Điều đó chúng tôi nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong những tác phẩm trước của chúng tôi, nay xin miễn bàn thêm, sợ nhàm tau các bạn.
3.- Nhiều khi ta dùng tiếng không đúng vì ta biếng nhác, cứ hễ tiếng nào hiện ra trong óc là ta ghi vội liền, không chịu cân nhắc kỹ lưỡng.
Cái gì cũng cho là đẹp: ngôi nhà đẹp, đoá hoa đẹp, cuốn sách đẹp, người đàn bà đẹp, châu thành đẹp, chữ viết đẹp, trời đẹp, sông đẹp.
Bạn có để ý nghe các học sinh phê bình phim hát bóng với nhau không? Họ khen: “Phim chớp hôm qua ở Majestic hay tuyệt. Đào kép đóng khéo tuyệt. Truyện phim hay ghê. Khúc cuối cảm động quá xá. Nhiều phong cảnh ngộ vô cùng...”
Họ biết tới 7-8 ngàn tiếng Việt, vậy mà chỉ dùng độ 7-8 trăm tiếng thôi. Thiệt đúng như W. James nói: “Loài người chỉ dùng có một phần mười bộ óc của họ”. Như thế khác chi ngôi nhà của ta có mười phòng mà ta chỉ ở một phòng, còn chín phòng kia thì để cho nhện giăng, bụi đóng.
Vậy ta nên bỏ thói dùng những tiếng “đút đâu cũng lọt” như cái, ngộ, kỳ, vô cùng, tuyệt, hay, đẹp...
4. - Sau cùng ta phải để ý tới những tiếng nghĩa tương tự.
Việt ngữ rất phong phú vì có rất nhiều tiếng đồng nghĩa. Mở cuốn Việt ngữ tinh nghĩa tự điển, bạn sẽ thấy rõ điều ấy.
Như đồng nghĩa với tiếng thấy có: trông, nom, nhìn, nhận, dòm, nhòm, ngắm, nghé, ghé, nhác, liếc, xem, coi, ngó.
Đồng nghĩa với tiếng ăn có: xơi, hốc, ngốn, ngấu, thực, thồi, nuốt, ấy là chưa kể những tiếng thô như tọng, nốc, chẹp...
Đồng nghĩa với tiếng hổ có: hùm, cọp, khái, kễnh, quan tướng, chúa sơn lâm, ông ba mươi, ông thầy.
Trong những tiếng ấy, có một số tiếng hoàn toàn đồng nghĩa với nhau, nghĩa là có thể đem tiếng này thay cho tiếng kia ở mọi trường hợp mà không thay đổi gì hết. Như những tiếng: hổ, hùm; heo, lợn; thí dụ, ví dụ; vào, vô; hết, cả...
Những tiếng ấy giúp nhà văn qua được nhiều cơn lúng túng.
- Có khi nhờ nó mà ta tránh được lỗi điệp tự. Ví dụ câu trên ta đã dùng tiếng hết:
Tôi hết viết chì rồi
thì câu dưới ta đừng viết:
Tôi không còn cây nào cho anh mượn hết
mà nên viết:
Tôi không còn cây nào cho anh mượn cả.
- Có khi giúp cho câu văn mạnh lên hoặc êm đềm hơn. Ví dụ:
Mưa gì mưa mãi!
với: Mưa chi mưa hoài!
Thì câu trên có vẻ bực tức hơn vì tiếng mãi là tiếng trắc, mạnh hơn tiếng hoài là tiếng bằng.
Một tiểu thư muốn nhỏ nhẹ kể lể với tình nhân, sẽ thỏ thẻ:
Em nhớ anh hoài
Nếu nói: “Tôi nhớ anh mãi” thì nghĩa lại khác.
Phần nhiều nghĩa những tiếng mà ta vẫn gọi là đồng nghĩa chỉ phảng phất như nhau, chính trong ấy có những tiểu dị có thể phân biệt được.
Như hai tiếng mãi và hoài trên kia nghĩa đã hơi khác nhau rồi đấy.
Tiếng heo và lợn không phải lúc nào cũng thay đổi lẫn nhau được đâu:
Ở Nam Việt nói:
Con heo nái, con heo sữa, con heo quay, con heo đất nhưng không nói: bánh da heo
mà nói: bánh da lợn.
Thiệt rắc rối! Nhưng làm sao bây giờ. Toàn dân đa quen dùng như vậy hàng mấy trăm năm rồi, ta không thể lấy ý riêng của ta mà sửa đổi.
Hai tiếng nhòm và dòm, ta thường dùng lẫn lộn, tưởng như hoàn toàn đồng nghĩa với nhau. Nhưng không.
Ta nói: dòm dỏ chứ không nói nhòm nhỏ
dòm nom chứ không nói nhòm nom.
Vậy vẫn có chỗ tiểu dị - Ông Nguyễn Văn Minh viết cuốn Việt ngữ tinh nghĩa tự điển:
“Nhòm là nhìn qua lỗ hổng”
Còn “Dòm là cảm thấy bằng trí khôn hay bằng mắt, có ý dò la, xem xét, rình mò”.
rồi ông đề nghị nên phân biệt hai nghĩa như vậy cho tiếng Việt được tinh xác hơn.
Tôi nghiệm thấy những tiếng hoàn toàn đồng nghĩa với nhau thường là những tiếng địa phương để chỉ cùng một vật, một việc như:
trái mận
trái thơm
trái mảng cầu
cây sầu đông
(Miền Nam)
(n.t)
(n.t)
(Miền Trung)
quả roi
quả dứa
quả na
cây xoan
(Miền Bắc)
(n.t)
(n.t)
(n.t)
Hoặc là những tiếng khi qua một địa phương khác thay đổi cách đọc, như:
dần dần
nhớn
bảo vật
nhời
sẹo
chung quanh
(Miền Bắc)
(n.t)
(n.t)
(n.t)
(n.t)
(n.t)
lần lần
lớn
bửu vật
lời
thẹo
xung quanh
(Miền Nam) [8]
(n.t)
(n.t)
(n.t)
(n.t)
(n.t)
Những tiếng trong loại thứ nhì (qua địa phương khác thì thay đổi cách đọc) không nên kêu là tiếng đồng nghĩa vì thực ra chỉ có một tiếng đọc trại giọng tùy nơi.
Còn những tiếng trong sân mà đọc là chong sân, vắn tắt, mà đọc là dắng tắt thì phải kêu là đọc sai, chứ không phải là những tiếng có nhiều cách đọc.
- Sau cùng, ta có rất nhiều tiếng Việt đồng nghĩa với những tiếng Hán-Việt, như:
người đi lýnh
ngay thẳng
rõ ràng
quê nhà
cứng mạnh
gan dạ
vợ cả
cha
v.v…
đồng nghĩa với
đồng nghĩa với
đồng nghĩa với
đồng nghĩa với
đồng nghĩa với
đồng nghĩa với
đồng nghĩa với
đồng nghĩa với
chinh phu
chính trực
minh bạch
cố hương
cương cường
can đảm
chính thất
nghiêm đường
Những tiếng Việt thông dụng trong dân gian, còn những tiếng Hán-Việt dùng trong giới học thức. Vì vậy những tiếng sau có phần trang nhã hơn. Ví dụ: “những kỳ quan trong vũ trụ”, có vẻ văn chương hơn “những cảnh lạ trong trời đất”; “lời khuyên các bà vợ” nghe hơi thô, mà “lời khuyên các bà nội trợ” thì lại thanh tao.
Có khi tiếng Hán-Việt có nghĩa mạnh hơn tiếng Việt, như đa cảm, hùng vĩ, khoan khoái... mạnh hơn là hay cảm, to tát, dễ chịu... Trái lại, có khi tiếng Việt lại mạnh hơn tiếng Hán-Việt như gan dạ với can đảm, đói rét với bần hàn...
Dùng tiếng Hán-Việt thì thường lời ngắn hơn là dùng tiếng Việt: như không muốn nói “chỉnh bị” thì phải nói “sắp đặt cho đủ”, không nói “hung khí” thì phải nói “khí giới giết người”...
Ta nên để ý đến những điều nhận xét ấy hầu khéo lựa tiếng mà dùng, nhưng không khi nào ta được viết: “chỉ tồn 3 đồng bạc”, trừ khi ta muốn khôi hài, vì dùng tiếng tồn thay thế cho tiếng còn như vậy, không lợi chút gì hết mà chỉ thêm cầu kỳ và tối nghĩa.
6
Có một cách tập dùng tiếng cho tinh xác là chép lại những đoạn văn của tác giả có chân tài, nhưng bỏ trắng những tiếng đặc biệt. Độ một tháng sau, khi đã quên hẳn đoạn đó, chỉ còn nhớ ý chính, sẽ lấy ra, tìm tiếng bổ vào những chỗ khuyết rồi so sánh với nguyên văn. Lối đó tốn công nhưng ích lợi lắm, nó làm giàu dụng ngữ của ta rất nhiều.
Chẳng hạn đọc qua một lượt bài “Báo oán” trong “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân, bạn chép lại rồi bỏ trắng như dưới đây:
Báo oán.
“Biết là có (1)... hiện lên cố phá không cho mình (2)... với thiên hạ, ông để tâm tra xét truyện nhà.
Thì ra, lúc sinh thời cụ Huấn đẻ ra ông đã phạm vào một việc (3)... Hồi còn (4)... cụ Huấn, cụ đã mang lấy trách nhiệm tinh thần về cái chết của một người nàng hầu tài tình nổi tiếng một thời. Người (5)... đó, lúc tự ải, đã có mang được sáu, bảy tháng. Cái (6)... ấy còn theo đuổi ông mãi, nếu ông cứ còn lều chiếu ở trường thi. Đây là lời người thiếp đó lúc (7)... vào con đồng khi (8)... lên. Nàng xưng là cô và gọi ông Đầu xứ Anh là nó cười (9)... và giọng nói (10).... “Nó còn đi thi, cô còn (11)... mãi. Các người hỏi cô muốn gì ấy à! Cô muốn, cô muốn nó phạm húy, cho nó bị tội cả nhà kia. Những nhà nó cũng có một ông (12)... thiêng lắm, cô không (13)... nó được như lòng cô muốn”. Con (14)...chỉ lắc lư nói có thế, nếu có (15)... hỏi thêm thì chỉ khóc (16)..., rồi lại lăn ra mà cười như (17)...
Ông Đầu xứ lạnh đến (18)... trong người. Và lo nghĩ từ ấy”
Bạn sẽ thấy ở sau những tiếng của Nguyễn Tuân đã dùng.
7
Tuy vậy cũng có khi sự mập mờ là một quy tắc hành văn. Tả những cảnh vật lờ mờ, những tình cảm mơ hồ thì những tiếng viển vông lại là những tiếng đúng nhất.
Nguyễn Du tả Đạm Tiên thấy trong giấc chiêm bao, viết hai câu bất hủ sau này:
Sương in mặt, tuyết pha thân
Sen vàng lãng đãng như gần như xa.
Không còn “làn thu thủy, nét xuân sơn” hoặc “khuôn trăng, mày ngài” nữa, chỉ còn thấy cái gì mờ mờ như sương, trăng trắng như tuyết, ẩn ẩn, hiện hiện như gần như xa thôi.
Tôi chưa gặp ma lần nào (mong lắm mà không được) nhưng tưởng ma phải cho ta cái cảm giác lạnh lẽo và mập mờ ấy.
Victor Hugo tả con bạch tuộc (pieuvre) cũng dùng bút pháp ấy. Ông viết: “Thình lình Giliati thấy cái gì nắm lấy cánh tay chàng. Cái mà chàng cảm thấy lúc đó là nỗi hoảng sợ không thể tả được. Có cái gì nó mỏng, ráp, giẹp, lạnh như nước đá, nhớt nhớt, dính dính và sống, nó mới quấn trong chỗ tối vào cánh tay đễ trần của chàng. Cái đó nó lên tới ngực chàng. Nó ép như một dây đai và đẩy như một cái tay quăn (vrile).”
Những tiếng cái trong đoạn ấy là những tiếng rất viển vông, nhưng lại cho ta cái cảm giác rùng rợn nhất.
* Những tiếng của Nguyễn Tuân dùng trong bài “Báo oán”:
(1) oan hồn
(4) mồ ma
(7) ốp
(10) the thé
(13) tàn hại
(16) hu hu
(2) mở mặt
(5) thiếp
(8) phụ
(11) báo
(17) bị cù
(14) đồng
(3) thất đức
(6) âm oán
(9) sặc sụa
(18) tủy xương sống
(15) gặng
(12) ông mãnh
TÓM TẮT
1. - Lời phải tinh xác thì văn mới sáng.
2. - Phải rán kiếm cho được những tiếng diễn đúng ý của bạn. Muốn vậy:
- dụng ngữ phải phong phú (học nhiều, nghe nhiều, du lịch nhiều).
- phải thường tra tự điển.
- phải để ý, khi dùng những tiếng đồng nghĩa.
3. - Khi tả những cảnh vật hay tình cảm mơ hồ thì những tiếng viển vông, mập mờ là những tiếng tinh xác nhất.
Chú thích:
[1] Chắc là “đời Tần” bị in sai thành “đời Hán”. (Goldfish).
[2] Được vua coi như cha.
[3] Một loài vịt xiêm.
[4] Tiếng miền quê Bắc Việt, nghĩa là đần độn.
[5] Cây dương.
[6] Mặc dầu ông học rộng nghe nhiều và đi cũng lắm nơi mà có lần lầm lẫn khi xét thơ Vương An Thạch. Trong Dã sử có chép ông cho 2 câu thơ sau này của họ Vương là vô lý:
Minh nguyệt đương không khiếu
Hoàng khuyển ngoạ hoa tâm
Mặt trăng sao mà kêu ở trong không, còn chó vàng sao mà nằm trong lòng đoá hoa được? Ông bèn sửa rằng:
Minh nguyệt đương không chiếu
Hoàng khuyển ngoạ hoa âm
Nghĩa là: Mặt trăng chiếu ở trong không, chó vàng nằm ở dưới bóng hoa. Họ Vương nghe thấy người ta kể lại vậy, không cãi. Sau Tô Đông Pha tới một miền có con chim kêu là “Minh nguyệt” và con sâu kêu là “Hoàng khuyển” mới hay là kiến văn của mình còn kém. Vậy ông đã sửa lầm và 2 câu thơ của họ Vương nghĩa là:
Con chim minh nguyệt kêu ở trên không,
Con sâu hoàng khuyển nằm ở trong lòng đoá hoa.
[7] Những trong câu thơ: “Va mon enfant chéri, d’une famille à l’autre” tiếng enfant chỉ đứa con gái của ông sắp về nhà chồng mà chéri ông viết không có e.
Chỗ khác ông viết:
“Le chiffre de mes ans a passé quatre vingt”
Lamartine còn tệ hơn, vêtent, vêtaient thì viết là Vêtissent, vêtissatent.
[Tôi bổ sung chú thích này theo bản Văn học). (Goldfish)].
[8] Miền Nam, Miền Bắc, Miền Trung: bản Văn học chép là: Nam Việt, Bắc Việt, Trung Việt. (Goldfish).