CHƯƠNG XI ĐỨC BIẾN HÓA
1.- Tránh lỗi điệp ý và điệp lời.
2.- Dùng phép đảo ngữ.
3.- Lối văn nhát gừng.
4.- Đặt câu dài.
5.- Giọng và thể văn cũng phải biến hóa.
1
Cái gì không thay đổi thì dễ làm cho ta chán. Cảnh núi và biển đẹp hơn cảnh đồng bằng chính vì nó thiên hình vạn trạng. Văn của bạn cũng vậy, nên như cảnh Cửa Tùng, Đèo Cả, đừng như cánh đồng Sóc Trăng, Bạc Liêu.
Trước hết bạn phải tránh những lỗi điệp ý và điệp lời. Trong một số báo, tôi đọc câu sau này:
“Đêm cuối tuần của một ngày rốt tháng, vòm trời đen nghịt như một bức màn nhung, nếu không có những vì tinh tú rải rác, long lanh thì cảnh Thập vạn đại sơn sẽ là một cái vung đen khổng lồ, không còn một hình bóng nào chuyển động”.
Một tháng có 3 tuần: thượng, trung và hạ. Đã là ngày cuối tháng thì tất nhiên là cuối hạ tuần rồi. Vậy nói “đêm cuối tuần của một ngày rốt tháng” Còn một lỗi điệp lời nữa là vì có hai tiếng đen.
Vì câu tối nghĩa, tôi muốn sửa mà không được. Cảnh trời ở miền Thập vạn đại san là một cái vung hay cảnh dãy núi Thập vạn đại sơn là một cái vung? Dãy núi là cái vung thì vô lý vì ngọn núi lởm chỏm mà vung thì tròn. Còn nếu là vòm trời thì sao đã ví nó với một bức màn rồi lại ví với một cái vung?
Cũng trong bài đó:
“Gió núi về đêm tuy thổi nhẹ nhung hơi cây cỏ và khí đá của non cao rừng thẫm (chắc là thẳm mà nhà in sắp lộn) có một khí lạnh...”
Hai tiếng khí. Có thể kiếm cách bỏ đi một. Rồi đã núi lại non nữa. Tôi thử sửa:
Gió về đêm tuy nhẹ, nhưng đá và cây của non cao rừng thẳm tiết ra một khí lạnh...”
Trong một số báo khác, một kí giả viết:
“Cô dạo quanh hồ Hoàn Kiếm với liễu yếu phất phơ, với cầu Thê Hức vòng nguyệt, với đền Ngọc Sơn và Tháp Rùa nhỏ bé, xinh xinh”. Tôi ngạc nhiên: liễu yếu, cầu Thế Húc, cả đền Ngọc Sơn và Tháp Rùa cũng biết dạo sao? Tiếng với đó không xuôi tai. Nếu viết:
“Cô dạo quanh hồ Hoàn Kiếm, ngắm liễu yếu phất phơ, cầu Thê Húc vòng nguyệt, đền Ngọc Sơn cổ kính và Tháp Rửa nhỏ bé xinh xinh” thì ta vừa tránh được lối văn “lai Tây” đó vừa đỡ được lỗi điệp lời: 3 tiếng với.
Hai câu dưới đây:
“Phải biết rằng nói đến quân Mông Cổ tức quân Nguyên là nói đến cái gì hung bạo, hiếu sát. Người Mông Cổ có tánh khí rất dữ tợn, cỡi ngựa cũng giỏi mà bắn tên thì không ai bằng.”
Có thể thu lại làm một:
“Quân Mông Cổ tức quân Nguyên, hung bạo hiếu sát, cỡi ngựa đã giỏi và bắn tên thì không ai bằng”.
Như vậy bớt được:
- 2 lỗi điệp lời (nói đến, Mông Cổ)
- 1 lỗi huyênh hoang (phải biết rằng)
- 1 lỗi vụng về (cái gì: một dân tộc mà sao lại gọi là cái gì?)
Tiếng cũng nên đổi làm đã cho thêm mạnh.
Đọc câu:
“Sách này không nói một cách vụng về, dị đoan, hoang đường như sách “kinh kệ” trên kia; sách này lấy tư tưởng nhiều danh nhân Tây phương Đông phương mà chằm vá lại khéo léo thành một chiếc áo bá nạp để choàn (hay choàng?) lên cái thuyết tu dưỡng mà các sách kia khoe là phép “trường sanh”.
Sách viết bằng...”
bạn có thấy bực mình vì 5 tiếng sách đó không? Hễ dị đoan tất là hoang đường rồi. Hai tiếng phương vô dụng.
Ta có thể nói không một nhà văn hiện đại nào không mắc lỗi điệp lời, hoặc ít hoặc nhiều. Hết thảy chúng ta đều viết vội quá.
Nếu Trần Thanh Mại trong cuốn Hàn Mặc Tử (Tân Việt) chịu khó đọc kỹ lại văn ông, tất đã sửa được lấy lỗi điệp lời và tối nghĩa trong câu:
“Cũng may mà phần thơ bí hiểm trong thi phẩm của chàng không phải là phần quan trọng nhất và cũng may mà một nguồn thơ mới khác vào khoảng đầu năm 1940, một nguồn thơ chân chính và may mắn xiết bao, đến vừa kịp để lôi người lạc lối về đường phải”
Thiệt là lúng túng. Ý của tác giả là gì? Có phải như vậy không: “Cũng may mà phần bí hiểm trong thi phẩm của chàng không dài lắm vì đầu năm 1940 một nguồn thơ mới chân chính đến vừa kịp để lôi người lạc lối đó về đường phải”. Ta đã rút đi được 18 tiếng (nghĩa là 1 phần 3) mà ý lại rõ ràng hơn.
Muốn tránh lỗi điệp lời, chúng ta có thể bỏ đi một vài tiếng hoặc sửa lại câu văn như trong những thí dụ ở trên. Nhiều khi chỉ cần kiếm một tiếng khác - đồng nghĩa hay không - để thay vào, như:
- Tiếng đồng nghĩa:
cả thay cho hết (Tôi không muốn nói gì hết)
hoài thay cho mãi
song thay cho nhưng, tuy nhiên
tới thay cho đến
bờ đường thay cho lề đường
………
- Tiếng không đồng nghĩa:
“Một người đàn bà còn trẻ, tóc bù xù, mặt lem luốc, cặp mắt láo liêng, miệng cười toe toét, vừa đi vừa vòng hai tay ra phía trước, xoay đi xoay lại như người lái xe hơi, thỉnh thoảng ngừng lại, tay như cầm vật gì nhỏ, đưa lên đưa xuống”.
Tiếng lại thứ nhì có thể thay bằng tiếng chân được mà nghĩa không đổi.
- Nếu ta cứ tự chê ta: “Mình dở quá, không biết đoán đúng bánh xe còn cách bờ bao xa hết” rồi cử tự trách hoài thì không bao giờ lái xe giỏi được.
Nếu chịu nhận xét rồi kiên tâm tập lần lần thì chẳng bao lâu sẽ giỏi”.
Tiếng giỏi ở sau có thể đổi là: tấn tới mà không hại chi tới ý.
- Nếu ở hàng trên ta đã dùng tiếng bắt buộc rồi mà ta muốn diễn ý này: “Anh bắt buộc phải làm việc ấy”, thì ta có thể viết:
Việc ấy anh từ nan không được.
hoặc: Đành phải làm việc ấy, chứ biết sao bây giờ.
hoặc: Danh dự của anh không cho phép anh thoái thác.
hoặc: Dẫu không muốn, anh cũng phải làm việc ấy.
……….
Có thiếu gì cách để diễn một tư tưởng. Hãy chịu khó tìm đi!
2
Tiếng Việt theo ngữ pháp đặt xuôi:
- Chủ từ rồi tới động từ, bổ túc từ.
- Tiếng bổ túc đứng sau tiếng được bổ túc.
Điều ấy tôi đã xét kỹ trong cuốn “Để hiểu văn phạm”[1]
Do đó, ta không thể đảo ngược những phần tử trong một câu ra sao cũng được.
Ta không thể viết như Voltaire:
“Còn được đi, khi người ta chỉ lầm lẫn về những bài ngụ ngôn như vậy - Passe encore lorsqu’on ne se trompe que sur de telles fables”
Hoặc như René Bazin:
“Chết rồi những cành chính mà sức nặng của những chùm nho làm cho ngã xuống - Mortes les branches mères que le poids des grappes inclinait.” mà ta phải viết:
“Chỉ lầm lẫn về những ngụ ngôn như vậy thì chưa sao cả”.
và:
“Những cành chính mà sức nặng của những chùm nho làm ngả xuống, nay đã chết rồi”
hoặc:
“Những cành chính nặng trĩu những chùm nho nay đã chết rồi”.
Đặc tính: “ngữ pháp xuôi” ấy là một sở đoản hay sở trường của tiếng Việt? Có lẽ là một sở đoản vì câu văn của ta luôn luôn phải đặt theo một lối, hóa ra ít thay đổi.
Tuy vậy, ta cũng vẫn có phép đảo ngữ, như:
Đau đớn thay! Phận đàn bà.
(Nguyễn Du)
hoặc:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi.
(Nguyễn Du)
Gác mái, ngư ông về viền phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
(Bà Thanh Quan)
Bóng sân trăng hãy còn cầm,
Nỉ non van lá, âm thầm trách hoa.
(Nguyễn Huy Tự)
Nhờ phép ấy, ta có thể biến hóa câu văn được.
3
Hơi văn cũng cần được thay đổi, khi dài khi ngắn.
Nhiều văn sĩ bây giờ ưa lối hành văn “nhát gừng”. Có lẽ họ chịu ảnh hưởng những tiểu thuyết gia bàn thứ 12 ở Pháp. Moreux trong cuốn Science et Style đã đưa ra nhiều kiểu mẫu lối văn “thuốc hoàn” đó. Tôi xin chép lại một đoạn để các bạn cười chơi.
“La femme sans visage est une femme à mille visages. - Peut être l’aimera t’elle? Peut être l’aimera-t-it?
Le moine tourne, se retouerne. – Il stoppe. – Il crie. – Il sue. – La femme qu’on aime!
Le bonheur est à portée de main. - II renverse le livre. –Il a chaud...”
Và theo Moreux, cái điệu đó kéo dài trong 250 trang! Không biết ông có nói quá không. Lẽ nào? Ông là một nhà tu hành mà!
Nhờ tổ tiên phù hộ, trong văn học hiện đại của ta, tôi chưa gặp tác giả nào viết như vậy! Cũng có lẽ tại tôi ít đọc báo chí và tiểu thuyết lắm. Nhưng lối văn nhát gừng không phải là hiếm thấy đâu nhé.
Trong một tiểu thuyết xuất bản gần đây, tôi đã gặp đoạn này:
“Tuổi chúng nó san sát (hay sàn sàn?) bằng nhau, độ 15, 16 gì đó.
Tuy còn ít tuổi, chúng đã tỏ ra là thạo đời lắm.
Trên những bộ mặt ngây thơ ấy đã in mờ mờ những vết đau khổ.
Hoàn cảnh xã hội xui (xui hay khiến?) chúng phải chật vật về cơm áo.
Người ta ít thấy Hạnh và Phúc mặc được manh áo lành bao giờ.
Chúng qua (!) rất nhiều nghề hợp với tuổi non nớt của chúng”.
Lật lại vài trang, ta lại gặp:
“Từ xã hội sơ khai đến cuộc sống hiện đại, loài người đã bước một bước rất dài.
Nắng ngày mai sẽ dịu lắm.
Mây ngày mai sẽ đẹp lắm.
Gió ngày mai sẽ hiền lắm.
Hương ngày mai sẽ ngát lắm. Ngày mai trời lại sáng!
Nắng lâu ấy sắp mưa rào.
Luật đời như vậy.. “Bĩ cực” tất phải có lúc “thái lai”.
Nhưng hãy khoan, xin bạn đừng cười vội. Hãy cùng tôi ngâm 2 trang sau này của một tiểu thuyết gia đã:
“Bể réo, sóng gầm. Mưa sa, gió táp.
Không khí như điên như cuồng: kêu, la, gào, thét.
Vũ trụ như động dại như hóa rồ: cây rên, nhà đổ, cát bay, đá lở, thuyền đắm, vật chết, vật trôi.
Bầu trời tối đen, quằn quại như sắp đổ xuống.
Trái đất bị lay đến gốc (!) như sắp vỡ tung ra.
Hào quang chạy từng luồng.
Nước đồ xuống từng hồi.
Xô ác khí xuống âm ti.
Dồn tà ma vào địa ngục.
Tạo Hóa đã phô quyền vạn thắng.
Muôn loài táng đởm kinh hồn, răm rắp vâng theo.
……….
Guồng trần xoay máy,
Bao nhiêu lò xo đã vì cuộc doanh hoàn mà mềm yếu.
Bao nhiêu bánh xe đã vì cuộc chuyển vận mà mẻ răng, sai khớp.
Phải tôi lại các lò xo.
Phải canh tân các bánh xe.
Phải kiến thiết lại sự sống.
………”
Bạn bảo muốn cho lời văn hùng hồn thì phải dùng những câu ngắn. Thưa vâng. Nhưng xin bạn hãy đọc tiếp:
“Trời quang đãng.
Vầng Thái dương tỏa ánh sáng ấm áp xuống cảnh đổ nát.
Một làn gió mát mẻ hây hây thổi.
Cây cỏ nhô đầu mọc...
Non nước một màu tươi”.
Tả cảnh êm đềm đó, có cần lối văn hùng không?
Chưa hết:
“Trước túp lều có một cái cây.
Dưới gốc cây có một bà cụ ngồi.
Túp lều, bà cụ, cái cây, ba vật như có một mối liên lạc.
Túp lều đổ nát.
Bà cụ đã mù.
Cái cây gần mục.
Thời gian đi qua. Dấu vết in trên tàn phá.
Một trận gió thoảng qua.
Ôi! Hương hồn của Đoàn Thị Điểm, Ôn Như Hầu, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến... chư vị có linh thiêng, xin về độ trì cháu chắt, cho một số văn sĩ hiện đại có cái hơi dài dài hơn một chút, đừng như cái hơi của kẻ sắp lìa trần ấy nữa!
Tất nhiên là ai muốn chấm câu ở đâu tùy ý, xuống hàng ở đâu mặc lòng, và cũng tất nhiên là chấm câu và xuống hàng theo lối trên thì sách mới dày, bán mới hời giá.
4
Nếu bạn chỉ muốn tác phẩm của bạn bán chạy thì bạn có thể viết những câu “nhát gừng” như vậy rồi quảng cáo cho mạnh là bạn sẽ thành công... được một lần. Nhưng nếu bạn muốn làm văn thì phải tập viết những câu dài.
Có nhiều thứ câu dài: thứ một vế, thứ nhiều vế. Mỗi vế lại có thể chỉ diễn một ý hoặc diễn một ý chính với một hai ý phụ bổ túc ý chính ấy.
“Người ý khí tài lực hơn người, không nương tựa ai, không luồn lụy ai, tự mình mình đi, tự mình mình lại, tự mình quý mình, ai yêu cũng mừng, ai ghét không giận, gọi là người tự trọng”.
(Nguyễn Bá Học)
Câu đó chỉ có một vế vì tất cả những tiếng in ngã chỉ để định nghĩa thế nào là tự trọng; ta có thể bỏ một vài khúc ngắn như: tự mình mình đi, tự mình mình lại, tự mình quí mình..., tuy ý có hơi thiếu, nhưng câu văn vẫn đứng được.
2.- Câu hai vế không đối nhau.
“Thừa tự được cái tính ấy, thầy tôi đã có một dĩ vâng “lang bạt kỳ hồ” ǀ mà ngày nay, mỗi lúc nhắc tới, mẹ tôi chỉ biết có kêu giời vào khoảng hai ngụm thuốc rượu”.
Nguyễn Tuân (Một chuyến đi)
Tôi dùng dấu gạch đứng để chỉ tới đâu là hết vế trên. Mỗi vế ấy chứa một ý chính và một ý phụ. Những tiếng diễn ý chính đã được in chữ đứng.
3.- Câu hai vế đối nhau.
Nếu hai vế đối nhau một cách tự nhiên thì bạn có thể tự hào rằng đã đạt tới cái tuyệt mỹ của văn nghệ rồi vậy. Như câu sau này trong bài Tế trận vong tướng sĩ của Nguyễn Văn Thành.
“Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt, cái sinh không, cái tử cũng là không; nhưng tiếc cho Tạo hóa khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng, phận thủy có, phận chung sao chẳng có”.
4. Câu ba vế.
Đào Duy Anh là một nhà học giả, viết cầu sáng, gọn mà không cần hoa mỹ, du dương; nhưng khi xét công lao của nông dân Việt Nam, tấm lòng ông đã rung động và đưa hơi văn của ông lên mạnh mẽ vô cùng trong câu 3 vế dưới đây:
“Giành nhau từng mảnh đất với sông rộng biển sâu ở Trung châu Bắc Kỳ, xông pha giữa rừng rậm mà mở mang bờ cõi Chiêm Thành, Chân Lạp, đó là công của nông dân; theo Lê Lợi đuổi quân Minh, theo Tây Sơn đánh loạn thần Trương Phúc Loan cũng là nông dân; Nguyền Huệ đánh đuổi quân Tôn Sĩ Nghị, Phan Đình Phùng kéo dài cuộc cần vương, cũng là đều nhờ lực lượng của nông dân.
5.- Câu bốn vế.
Phải có nhiều kinh nghiệm mới viết được những câu 4 vế mà nghĩa khỏi tối, như:
“Giả sử ngay khi trước, Liêu Dương cách trở, duyên chàng Kim đừng dở việc ma chay, quan lại công bằng, án viên ngoại tỏ ngay tình oan uổng, thì đâu nỗi son phấn mấy năm lưu lạc, đem thân cho thiên hạ mua cười, mà chắc biên thùy một cõi nghênh ngang, ai xui được anh hùng cởi giáp, thì sao còn tỏ được là người thục nữ mà đủ đường hiếu nghĩa, đàn bà mà có cơ quyền?”[2]
Chu Mạnh Trinh (Bài tựa truyện Kiều)
Đoàn Quì dịch
Muốn viết những câu dài, cần chú ý đến 2 điều sau này:
- Ý tứ phải liên lạc tự nhiên, câu văn mới được sáng. Vậy nên ít dùng đảo ngữ.
- Những vế phải dài, ngắn xứng nhau. Nếu vế trên dài quá mà dưới ngắn thì câu sẽ hóa ra “thọt”
- Nếu một câu có nhiều vế, vế đầu ngắn, càng về sau càng dài thì câu văn sẽ mạnh lắm, như câu dưới đây trong bài phú cung A Phòng của Đỗ Mục:
“Người nước Tần không có thì giờ đề tự than cho mình mà người đời sau than thở cho họ, người đời sau than thở cho họ mà lại không biết lấy đó mà làm gương, khiến cho người đời sau nữa lại phải than thở cho người đời sau nữa.
Ai đọc đoạn kết của Lincoln trong một diễn văn về thác Niagara mà không thấy hơi văn mạnh như sóng gầm, thác đổ, nhất là khi biết nhấn mạnh vào những hàng in chữ đứng đậm:
“Thác đó gợi cả cái thời xưa, một thời xưa mơ hồ. Khi Kha Luân Bố bắt đầu đi tìm Châu Mỹ, khi Giê Xu chết trên thánh giá, khi Moise dắt dân Do Thái qua Hồng Hải, khi Adam, phải, khi Adam xuất hiện, do tay Thượng Đế nặn nên, ở những thời đó thác Niagara cũng đã gầm lên như bây giờ rồi. Những loài khổng lồ bây giờ đã tiêu diệt, chỉ còn xương đầy gò đống ở châu Mỹ, thì thời đó chúng đã mở rộng cặp mắt ra như chúng ta bây giờ để nhìn ngọn thác hừng vĩ ấy. Tuy đồng thời với giống người thứ nhất, già hơn nữa là khác, mà thác Niagara vẫn trẻ, mạnh như hồi mười ngàn năm về trước. Những con voi khổng lồ chết đã lâu tới nỗi bây giờ chúng ta chỉ nhờ thấy những mảnh xương của chúng mà biết rằng hồi xưa chúng đã sống, cũng đã ngắm cái thác Niagara, cái thác mà trải qua một thời gian dài như không tưởng tượng được ấy, vẫn chảy thao thao bất tuyệt, không bao giờ ngừng, dù là chỉ ngừng trong một lúc, không bao giờ cạn đi, không bao giờ đông lại, mà cũng không bao giờ, không bao giờ nghỉ ngơi nữa.”
Phải coi chừng, đừng ngắt câu khi chưa hết nghĩa vì ta thường viết tới đoạn cuối thì quên ngay mất đoạn đầu.
Ví dụ câu dưới đây có đầu mà cụt đuôi:
“Ở trong tình thế hiện tại mà thợ thuyền chỉ cần sao ăn cho đủ no, mặc cho đủ ấm, khi ốm đau có thuốc uống, khi mệt nhọc được nghỉ ngơi mà điện còn đắt, nước cũng phải mua, những vật liệu để cất nhà có khi kiếm không ra, mà không một ai chắc chắn về tương lai, chỉ sống lây lất từng ngày một”.
Bạn phải viết thêm, chẳng hạn: “thì có lẽ ta cũng chưa nên xét đến những điều kiện thuận tiện để làm việc, vì ta sẽ mang tiếng là bàn suông mất”.
Nếu không muốn viết thêm, thì chỉ bỏ ba tiếng mà đi, là câu đứng vững được.
5
Giọng văn và thể văn cũng cần phải biến hóa, lúc vui lúc buồn, lúc tả cảnh, lúc tự sự.
Một trong những đoạn hay nhất của Truyện Kiều, thường được dùng làm kiểu mẫu cho học sinh, tức là đoạn ba chị em Kiều đi tảo mộ.
Thiệt là đủ cảnh.
Vui như:
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Êm đềm như nước:
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh,
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Rồi trong hai câu kế, cảnh biến đổi một cách đột ngột:
Sè sè nắm đất bên đàng,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Miêu tả rồi tự sự. Kiều đương vui cảnh xuân, nghe em kể đời Đạm Tiên bỗng buồn, còn Vân thì cười. Vương Quan thì bực tức và cả ba đều sợ khi âm hồn của Đạm Tiên hiện lên.
Rồi vừa mới hết sợ lại vui ngay vì Kim Trọng đến. Vui chưa được mấy lúc, đã tới sầu li biệt, thầm tiếc và nhớ nhung:
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người còn ghé theo.
Dưới cầu nước chảy trong veo.
Bên cầu tơ liều bóng chiều thướt tha.
Trong 132 câu mà không thiếu một cảnh, một tình nào hết. Dẫu đến thơ văn của ngoại quốc cũng hiếm thấy những đoạn mà từ ý tới lời biến hóa một cách huyền ảo như vậy. Thiệt là tuyệt diệu!
TÓM TẮT
1.- Văn có biến hóa như cảnh núi, cảnh biển thì đọc mới không chán.
2.- Lời, ý, giọng, hơi văn và thể văn đều phải thay đổi. Phải tránh lỗi điệp ý, điệp lời; nên dùng phép đảo ngữ và xen những câu văn dài vào nhũng câu ngắn; giọng nên lúc thì buồn lúc thì vui; khi thì dùng lối miêu tả, khi dùng lối đối thoại hoặc tự sự.
Chú thích:
[1] Loại sách “Học và Hiểu” - P. văn Tươi xuất bản, Saigon -1952
[2] Trong Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm tôi thấy chấm câu ở sau những tiếng: “anh hùng cởi giáp”. Tôi tưởng như vậy là sai vì việc nàng Kiều sẽ không tỏ ra là người thục nữ cũng là một kết quả của giả thiết: “Giả sử duyên chàng Kim đừng dở việc ma chay và quan lại công bằng”. Câu dịch có nhiều thì, mà quá, không gọn, nhưng tôi phải để vì chưa kiếm được câu nào khác, cũng chưa tìm thấy nguyên văn dề dịch lại.