CHƯƠNG XII NHẠC TRONG VĂN
1.- Tiếng Việt giàu âm thanh.
2.- Nghĩa của các thanh.
3.- Nghĩa của các âm.
4.- Phải tập ngâm thơ và bình văn.
5.- Làm sao cho văn được êm đềm:
1. Tránh lỗi điệp âm.
2. Dùng những tiếng gây một cảm tưởng êm đềm.
3. Đừng dùng nhiều dấu ngoặc.
4. Để ý đến khổ nhạc.
5. Nhạc trong thơ.
6.- Văn phải êm đềm nhưng
1. Đừng rỗng
2. Đừng dùng lối vè.
7.- Kết luận.
1
Có người nói đùa, cho Việt ngữ là tiếng gốc của loài người vì nó có gần đủ âm của các tiếng khác. Nhờ vậy ta học tiếng ngoại quốc nào cũng dễ dàng. Người Trung Hoa không phát được âm b: danh từ Anh Business họ đọc làm sao từa tựa như Pidjin, do đó có tiếng Pidjin English để chỉ thứ tiếng Anh nói theo giọng các con buôn ít học ở Thượng Hải.
Người Pháp không phát được âm h: một anh bạn tôi tên là Hách, học 10 giáo sư Pháp thì cả 10 đều gọi anh là Atch. Tiếng haut của họ nếu ta đọc hô là sai, phải đọc ô. Họ khó khăn lắm mới nói được “time”, “come” đúng như người Anh vì họ không có âm th và kh mà phụ âm t và c trong 2 tiếng ấy đọc gần như th và kh của ta. Ta cũng thiếu nhiều âm như P, J... nhưng phần đông chúng ta phát những âm đó rất dễ.
Ngoài ra, sự phong phú về thanh của ta cũng hơn cả các tiếng Anh, Pháp. Một người Pháp muốn phát được dấu ˀ ~ chắc cũng phải ở Việt Nam cả chục năm và ăn hàng trăm tỉn nước mắm. Người Anh có lẽ cũng vậy. Ta có đủ 4 thanh: bình, thượng[1] khứ, nhập của Trung Hoa, nhưng mỗi thanh lại chia làm hai bực: bổng và trầm:
bình bổng: những tiếng không dấu
bình trầm: những tiếng dấu huyền
thượng bổng: những tiếng dấu hỏi
thượng trầm: những tiếng dấu ngã
khứ trầm: những tiếng dấu nặng
nhập bổng: những tiếng dấu sắc có c, ch, p, t ở cuối
nhập trầm: những tiếng dấu nặng có c, ch, p, t ở cuối
2
Chỉ nghe âm thanh của một số tiếng Việt ta cũng có thể đoán được nghĩa, như tiếng nao nao, du dương, lơ thơ, gập ghềnh, khúc khuỷu..., dù không hiểu nghĩa, khi đọc lên ta cũng có những cảm tưởng phảng phất như cảm tưởng mà những tiếng ấy diễn.
Mỗi thanh cơ hồ có một ý nghĩa riêng:
- Bình bổng có ý ngang ngang, chưa quyết định,
- Bình trầm có ý lên rồi xuống nhưng nhẹ,
-Thượng bổng “vì là một giọng gẫy nhưng mà còn dịu, nên chi những tiếng nào nó đã ghi là có nghĩa nhẹ hoặc ngắn, hoặc nhỏ, hoặc dễ”[2]
- Thượng trầm “vì gẫy mà chìm, nói phải rán đưa hơi từ trong ngực ra, nên chi những tiếng nào nó đã ghi là có nghĩa nặng hoặc dài, hoặc lớn, hoặc khó, hoặc bền”
- Khứ bổng và nhập bổng có ý mạnh mẽ, gắng sức.
- Khứ trầm và nhập trầm có ý nặng nhọc, chìm hẳn xuống.
Luật đó không phải là luôn luôn đúng nhưng cứ xét những tiếng: choái (gần đến độ lớn), choài (hơi ngoi lên được), choải (choai choải: mạnh hơn choai một chút, nhưng vẫn còn dịu), choái (choai-choái: tiếng kêu hơi lớn), choãi (rộng ra: đã có sự gắng súc như chân ghế choãi ra), choại (trượt chân: có ý 2 chân mở rộng ra thình lình, mạnh mẽ), ta cũng thấy mỗi thanh dường như có một nghĩa riêng.
3
Mà mỗi âm nếu khéo dùng, cũng giúp ta phô diễn tư tưởng, tình cảm một cách tế nhị.
- a, o, ô, oa thì vang lên và vui vẻ.
Tôi chưa tìm được bài thơ Việt nào trong đó tác giả dùng những âm ấy để tả nỗi vui, đành phải mượn đoạn dưới đây trong bài La source của Théophile Gautier.
Elle murmure: “Oh! Quelle joie!
Sous la terre, il faisail si noir!
Maintenant ma rive verdoie,
Le ciel se mire dans mon miroir.
Những vần joie, noir, doie, roir trong đoạn ấy như những tiếng của dòng suối ở dưới đất tối om om phun ra reo hò trước cảnh rực rỡ của mặt trời.
- Âm eo có vẻ êm đềm.
Nguyễn Khuyến đã dùng nó trong bài Thu Điếu và làm cho ta khi ngâm lên, có một cảm tưởng nhẹ nhàng, trong trẻo:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí.
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Từng mây lơ lững trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được.
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
- Âm i nhất là khi nó ngân dài ra, gây một nỗi buồn như cảnh chia li vậy. Xin bạn ngâm đoạn cuối trong bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu:
Mây vẫn từng không chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia li.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì?
- Âm u còn buồn tối, u sầu hơn âm i. Bài Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư về ý thì không có gì đặc sắc, nhưng về âm thì tuyệt diệu. Nó là một khúc nhạc áo não của gió thu vi vu bên tai ta. Chắc bạn còn nhớ bài đó.
Em không nghe mùa thu.
……….
Nguyễn Du đã dùng những âm 1 và ơ để tả một cảnh dịu dàng.
Lơ thơ tơ liễu buông mành[3]
Chỗ khác tiên sinh lại dùng những âm c, kh, g, gh để đạt tới một kết quả trái ngược:
Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh.
Thế Lữ cũng đã dùng âm l để tả tiếng lá trong bụi lau:
Cạnh lớp lau già gió lắt lay
Còn Xuân Diệu thì ghép 4 tiếng đều có phụ âm r để hình dung những lá đương run run trong gió lạnh.
Nhưng luồng rún rẩy rung rinh lá
- Phái tượng trưng ở Pháp còn cho mỗi âm một màu sắc. Arthur Rimbaud viết:
“Âm A đen, E trắng, U xanh, O lam”[4]
Ông không có ý nói đùa đâu, ông đã phô diễn một sự thực nghiêm trang không ai chối cãi được. Nhưng riêng tôi thấy âm U[5] đen chứ không phải âm A. Vì mỗi âm, mỗi thanh có một ý nghĩa riêng, giữ một chức vụ riêng trong sự phô diễn tình cảm nên trong cuốn Nghệ thuật nói trước công chúng, chúng tôi đã chủ trương nên phân biệt, trong khi nói, những dấu ˀ ~ như đồng bào Bắc Việt, những phụ âm ch, tr, s, x, r, d, gi, như đồng bào Nam Việt để đừng làm mất tính cách uyển chuyển, du dương và hùng hồn của Việt ngữ.
Ngâm câu thơ của Xuân Diệu:
Nhũng luồng rún rẩy rung rinh lá.
mà không uốn lưỡi khi gập âm r thiệt là phụ thi sĩ quá mà cũng chẳng hiểu văn thơ chút nào.
Ta nên chú trọng đến ý nghĩa của âm và thanh để khéo dùng hết thảy những khả năng của tiếng Việt, đặt câu cho được êm đềm và hiểu được nhạc trong thơ văn.
4
Muốn vậy, ta phải luyện tai. Hồi xưa ông thầy nào cũng tập bình văn và ngâm thơ, nên sành về nhạc của lời hơn chúng ta bây giờ. Chúng ta tuy có học âm nhạc, nhưng phần nhiều các bài ca chỉ có âm thanh mà không có ý nghĩa, lời thì vụng về, nhạt nhẽo, mà những thầy dạy đờn thường không hiểu văn, nên cách luyện tai đó không bằng cách của cổ nhân.
Vậy muốn lănh hội được nhạc trong thơ văn, ta phải tập ngâm thơ, không còn cách nào khác. Nhưng ai dạy mà học bây giờ? Mười ông giáo ở Nam Việt thì không có lấy được một ông biết ngâm Kiều và thơ luật. Không hiểu tại sao người ta vong bản quá mau như vậy?
5
Muốn cho câu văn được êm đềm, bạn nên:
1.- Tránh lỗi điệp âm:
- “Cho nên bất kỳ trường hợp nào dầu nặng dầu nhẹ, nếu quí bà nghi con mình bị sưng màng óc, nên tìm bác sĩ mau lẹ”.
- “Hôm nay trời tạnh, gió thổi mạnh, tôi chạnh nhớ những kẻ bất hạnh không có túp nhà để che thân”.
Bài thơ Tinh vấn vương của Nguyễn Đường Lý tôi đã dẫn trong cuốn Nghệ thuật nói trước công chúng để luyện môi thì rất nên, chứ về nhạc thì tuyệt nhiên không nên bắt chước. Vả lại tác giả cũng viết để chơi, chứ không chủ ý làm thơ:
Dan díu dằng dai dáng dật dờ!
Vấn vương vô vị việc vu vơ...!
………
Bạn nào biết tiếng Pháp chắc còn nhớ câu thơ sau này của Voltaire mà người ta thường dẫn để chế giễu ông:
Non, il n’est rien que Nanine n’honore.
Victor Hugo cũng mắc lỗi điệp âm và một nhà phê bình đã châm biếm ông một cách chua cay trong 4 câu:
Où, Ô Hugo, juchera-t-on ton nom?
Rendu justice que ne t-a-t-on?
Quand donc au mont qu’Académique on nomme,
De roc en roc, grimperas - tu, rare homme?
2.- Dùng những tiếng gây một cảm tưởng êm đềm.
Mỗi khi đọc những tên như Tần Hoài, Cô Tô, Tầm Dương, Giang Châu, Hàn San... tôi thấy lòng rung động nhè nhẹ. Tại sao? Tôi không hiểu. Tôi có được học Hán tự nhiều đâu? Tám tuổi đã phải ê a: la mère là người mẹ. Có lẽ tại những lời ngâm thơ, bình văn của tổ tiên ta còn văng vẳng trong tâm hồn tôi như những tiếng Egérie, Palerme, Lidie, Tivoli, Cynthie trong tâm hồn như Pháp vậy chăng?
Khéo dùng những tiếng ấy - nghĩa là dùng cho hợp chỗ - thì văn của bạn có cái duyên kỳ ảo, mê li, cái thanh âm, màu sắc của thời xưa, của xứ lạ.
Bảo như vậy là có tâm hồn nô lệ Trung Hoa thì cũng tức như bảo Pháp là nô lệ Hi Lạp vì người Pháp có học thức nào đọc đoạn Une nuit à Rome của Chateaubriand trong Les Mémoires d’Outre-tombe mà không thấy thích? Bạn đọc câu:
Elle a vécu, Myrto, la jeune Tarentine
của André Chénier có say mê không? Say mê vì nhạc của thơ và vì những âm huyền diệu của 2 tiếng Myrto và Tarentine.
3.- Đừng dùng nhiều dấu ngoặc quá, vì nó ngắt hơi văn đi. Nếu đoạn ở giữa những dấu ngoặc mà dài thì độc giả khi đọc tới dấu khép, tất phải trở lại từ đầu câu mới hiểu nghĩa.
Trong một số báo, tôi gặp đoạn này nói về nhân vật triều Trần:
“Trước sự ngạo mạn của sứ nhà Nguyên, trên từ vua dưới tới các sắc dân, thảy đều căm hận. Hiềm, vì thế nhà Nguyên đương mạnh mà binh bị của ta còn yếu hơn họ, vua Nhân Tông phải nuốt giận, ép mình sai quan đại thần ra tiếp sứ. Sài Thung không thèm đáp lễ. (Một ông Lễ bộ thượng thư mà thiếu lễ!). Vua bày yến mời, Sài Thung cũng không thèm đến (chắc ông Lễ bộ còn bận ở sứ quán học lễ)... Sau Nhân Tông phải cắn răng dọn yến ở điện Tập hiền mời mãi, Sài Thung mới đến. Đang khi uống rượu, Nhân Tông bảo Sài Thung rằng: “Quả nhân xưa nay sinh trưởng ở trong cung, không quen phong thổ, không thế nào đi được.” (Hoàng Đế biết tự trọng mà giữ thể diện cho dân tộc).
Được mấy hôm, Sài Thung về nước. Nhân Tông sai sứ mang thư sang Tàu nói không thể sang chầu được. (Hoan nghinh ngài một lần nữa).
Vua nhà Nguyên lấy thế làm giận (cố nhiên Thiên triều giận thì sẽ thành Thiên lôi, búa chết các dân tộc yếu kém cho mà coi), ý muốn cất quân đánh ta (mới muốn chứ chưa dám quyết).
Những lời mỉa mai ở giữa các dấu ngoặc chẳng có ý vị gì hết mà dù có đi nữa thì nhiều quá cũng hóa ra vô vị. Vả lại như vậy cả đoạn bị cắt ra làm mấy khúc, mất sự liên tiếp trong hơi văn, còn êm đềm làm sao được nữa. Huống hồ, đọc câu cuối cùng, tới tiếng coi, bạn phải trở lại từ đầu câu cho hiểu nghĩa, thiệt bất tiện.
Xin bạn đọc thêm đoạn dưới dây của Triều Sơn trong cuốn: Con đường văn nghệ mới.
“Đại chúng hóa là làm sao cho văn nghệ phẩm không những dễ hiểu, dễ cảm đối với đại chúng mà nội dung của văn nghệ phẩm cũng thích hợp với tinh thần đại chúng. Ở đây vấn đề không phải chỉ ờ hình thức của văn nghệ phẩm (tức là ở kỹ thuật của văn nghệ sĩ) mà còn là - và trước hết là - ở phần chất văn nghệ, phần tinh thần của văn nghệ phẩm, phần ý thức hệ chứa đựng, tiềm tàng trong văn nghệ phẩm”.
Vừa mới dùng hai dấu ngoặc, cách 3 tiếng sau lại dùng hai gạch ngang nữa: câu văn thành thử bị cắt ra làm 5 khúc. Muốn sửa thì phải viết lại cả đoạn.
Nhiều khi chỉ cần đảo vài tiếng là bỏ được dấu ngoặc. Ví dụ, câu:
“Từ khi thi sĩ Tản Đà (họ Nguyễn, quê ở Sơn Tây) mất đi, thì chưa có ai dịch thơ Đường được như vậy nữa”
Có thể sửa như vầy:
“Từ khi thi sĩ họ Nguyễn ở Sơn Tây là Tản Đà đã mất đi, thì chưa có ai dịch thơ Đường được như vậy nữa”
4.- Khéo ngắt câu.
Thơ để ngâm, mà mỗi câu chỉ có ít tiếng thôi, nên khổ nhạc phải ngắn: một hai hoặc ba tiếng một.
Như thơ lục bát, nếu bỏ những tiếng lẻ đi, chỉ kể những tiếng chẳn thì cứ một tiếng bằng lại tới một tiếng trắc. Thí dụ:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trong câu sáu: tiếng thứ hai là bằng, tiếng thứ tư là trắc, tiếng thứ sáu là bằng. Trong câu tám cũng vậy, duy có tiếng thứ tám tất nhiên phải bằng để vần với tiếng sau.
Trong thơ bảy tiếng thì khổ nhạc là hai hoặc một tiếng:
Từ thuở vương xe mối chỉ hồng,
Lòng này ghi tạc có non sông!
Đường mây cười tớ ham giong ruổi,
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng,
Ơn nước nợ trai đành nỗi bận
Cha già nhà khó cậy nhau cùng.
Mấy lời nhắn nhủ cơn li biệt,
Rằng nhớ rằng quên lòng hỡi lòng.
(Phan Thanh Giản)
Vỉ tiếng bảy đã ở cuối câu lại thường là vần phải ngâm dài, nên chỉ một mình nó đủ thành một khổ nhạc. Nhưng trong thể song thất lục bát, khổ nhạc của những câu 7 lại thường ở tiếng thứ 3, thứ 5 và thứ 7:
Khi ấp mận, ôm đào gác nguyệt;
Lúc cười sương cợt tuyết đền phong.
(Cung oán ngâm khúc)
Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ,
Thiếp dạo hài lối cũ rêu in
(Chinh phụ ngâm)
Trong thơ tám chữ thì khổ nhạc là ba hoặc hai tiếng:
“Nay là lúc mang sức trâu mãnh liệt,
Giẫm gót cày, tàn phá hết ruộng nương,
Khơi mạch sống ở trong lòng đất chết,
Mở đường lên cho hạt thóc đang ươm”[6]
Tuy vậy, cũng có những khổ nhạc khác lệ thường.
Như trong thơ lục bát, có khi nó ở tiếng thứ ba và thứ sáu:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần”
và:
Nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương.
Trong văn xuôi bây giờ ít ai để ý đến khổ nhạc, nên các nhà nho chê chúng ta viết lủng củng. Đọc những bài phú, kinh nghĩa, văn tế, tứ lục, ta thấy hồi xưa chú trọng tới nhạc biết bao. Các cụ cho không có nó, không thành văn:
“Kẻ thời chen chân ngựa, quyết giật cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mệnh bạc, nắm lông hồng theo đạn lạc tên bay; kẻ thời bắt mũi thuyền, toan cướp giáo giữa dòng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa mặc bèo trôi sóng vỗ”.
Nguyễn Văn Thành (Tế trận vong tướng sĩ)
“Sách vở mập mờ, văn chương lóng đóng, khoa trước đã chầy, khoa sau hẳn chóng. Ý sẵn kẻ lo toan việc nước, vua chửa dùng hiền; hay không ai dạy dỗ đàn em, trời còn bắt hỏng”.
Trần Tế Xương (Bài phú hỏng thi)
“Yếm trắng nước hồ, vã đi vã lại, chỉ mong anh đồ chi yêu đương. Miệng ong lưỡi cú, uốn ngược uốn xuôi, cũng mặc giọng thế gian chi mai mỉa”.
Lê Quí Đôn (Lấy chồng cho đáng tấm chồng)
“Than ôi! Một bước phong trần, mấy phen chìm nổi; trời tình mờ mịt, bể giận mênh mông. Sợi tơ mành theo gió đua đi, cánh hoa rụng chọn gì đất sạch. Ai dư nước mắt khóc người đời xưa; thế mà giống đa tình luống những sầu chung, hạt lệ Tầm Dương chan chứa. Lòng cảm cựu ai xui thương mướn, nghe câu ngọc thụ não nùng. Cho hay danh sĩ giai nhân cùng một kiếp hoa nghiêm nặng nợ”.
Chu Mạnh Trinh (Bài Tựa Truyện Kiều)
Trong những đoạn trên, khổ nhạc không chừng, khi dài khi ngắn, nhưng tiết nhạc thường thì cứ một bổng rồi lại một trầm, hoặc hai bổng rồi hai trầm, nên văn du dương như bản đờn vậy.
5.- Nhưng nhạc trong văn thơ còn nhiều cái tế nhị lắm, rất khó phân tích. Xin bạn ngâm ba câu bảy này của Đoàn Thị Điểm:
Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi.
Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình.
Gieo bói tiền tin dở còn ngờ.
Cũng theo cái tiết: bằng, trắc, bằng, nhưng hai câu đầu êm tai, câu cuối hơi khó ngâm. Tại những tiếng thứ ba và thứ bảy có liên lạc mật thiết với nhau. Cả hai đều bình hết, nhưng một bình bổng, một bình trầm: trầm rồi bổng thì dịu dàng nhất, bổng rồi trầm đã hơi kém, cả hai đều trầm thì hơi vướng tai.
Trong thơ lục bát cũng vậy.
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Buồng không để đó, người xa chưa về.
Tiếng sáu và tiếng tám đều là bình, nhưng một trầm một bổng. Không khi nào cả hai đều bổng hoặc trầm hết vì như vậy không sao ngâm lên được.
Trong bài “Thi nhạc” (Việt Thanh ngày 30-6 và 7-7-52, Hư Chu chê hai câu thơ sau này của Tản Đà là thiếu nhạc:
Lác đác hồ Tây chiếc lá rơi.
Trăng khuya vằng vặc bóng theo người.
và muốn đổi: hồ Tây ra Tây hồ.
Hư Chu thiệt đã sành về nhạc. Tản Đàn đã mắc lối dùng 2 tiếng bình bổng (Tây và rơi) ở cuối khổ thứ hai và thứ tư trong câu trên. Đổi như Hư Chu sẽ êm tai hơn.
Nhưng cũng trong bài ấy, tác giả lại khen bài dịch Thuyền ai đậu bến Cô Tô của J. Leiba là một bản đờn.
Thuyền dạo hồ Đông muôn dặm chơi,
Quạ kêu trăng lặn nước mờ khơi.
Hàn San vẳng tiếng chuông chùa sớm,
Cây bến đèn ngư não mộng người.
mà trong câu đầu, J. Leiba đã dùng hai tiếng bình bổng ở cuối tiết hai và bốn, y như Tản Đà. Tại sao cùng một lối dùng thanh mà chỗ này đáng khen, chỗ khác lại đáng chê?
Hư Chu khiêm tốn nói “không chỉ rõ được mặt nhạc” vì “thi nhạc bất khả dĩ ngôn truyền” nhưng chính ông đã giảng kỹ cho ta rồi trong câu dưới đây:
“Ngâm bài này (bài của J. Leiba), tôi cảm thấy tôi bị âm thanh nâng bổng lên mỗi lúc một cao, càng lúc càng cao thêm, cho đến sau cùng tôi lại bị lắng xuống theo ba tiếng nhạc trầm”.
Thì đúng vậy. Nhờ những tiếng Đông, chơi, khơi đều là bình bổng, thi sĩ J. Leiba giữ hơi ta chơi vơi ở trên không để đến cuối bài mới dìm hẳn nó xuống trong ba tiếng: não, mộng, người.
Vậy có khi ta nên cứ bổng rồi trầm, có khi nên cho đi một hơi bổng rồi mới trầm hoặc ngược lại.
Nhạc phải tùy cảm xúc của ta.
Mới đọc đoạn cuối trong bài Đây, mùa thu tới của Xuân Diệu:
Mây vẫn từng không chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia li.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
bạn cho câu đầu là khó ngâm ư? Phải. Ít ai làm thơ lạ lùng như vậy. Bốn tiếng bình bổng đi liền nhau: không, chim, bay, đi. Nhưng tôi lại rất thích vì hai lẽ:
- 4 tiếng ấy với vần ly đều bổng rồi cuối cùng hạ 3 tiếng trầm: nghĩ, ngợi, gì, thành thử nhạc y như trong bài “Thuyền ai đậu bến Cô Tô” của J. Leiba. Ta có thể nói đó là một khổ nhạc dài.
- 4 tiếng bình bổng đi liền nhau ở câu đầu cho tôi cảm tưởng như trông thấy đàn chim chắp cánh bay bổng ở trên không thành một hàng song song với chân trời. Xuân Diệu đã nhờ thanh âm mà vẽ được cảnh vậy.
Còn trong bài Nhớ Hồ gươm dưới đây của Vũ Hoàng Chương thì điệu nhạc ngược lại, không bổng, bổng, bổng, trầm, mà trầm, trầm, trầm, rồi mới bổng.
“Tang thương một cuộc ngẩn ngơ rùa
Nghiên đá nhàu gan ngọc nát chùa.
Rền rĩ gươm thiêng gào đáy sóng,
Tượng vườn Lê Tổ bẽ bàng vua”
6
Từ khi Pháp văn lan tràn vào nước, chúng ta học được của người cũng nhiều: văn ta sáng sủa, gọn ghẻ, tự nhiên hơn; thơ mới, kịch, phóng sự và nhất là tiểu thuyết phát triển mạnh mẽ. Nhưng vì quá theo mới chúng ta đã bỏ mất cái hay của tổ tiên, chúng ta không chú trọng tới đặc tánh giàu thanh âm của Tiếng Việt, không biết dùng nó cho văn ta êm đềm. Chúng ta không để ý ngắt câu, cũng không khéo phân phát những âm trầm bổng ở những chỗ nghỉ, thành thử văn xuôi hiện đại trúc trắc khó ngâm.
Ở Trung Quốc cũng vậy. Văn bạch thoại bây giờ không còn chút tính cách biền ngẫu nào hết. Nhưng những người Âu nghiên cứu văn học của họ thì lại tiếc giùm cho họ. Ông Margouliès trong cuốn Histoire de la Littérature chinoise, đặc biệt chú trọng tới nhạc trong văn, thơ Trung Quốc mà ông cho là một đặc tính quí báu của Hoa ngữ. Rồi ông kết luận rằng một ngày kia nước họ đã hùng cường rồi, văn học của họ sẽ lại tiếp tục tiến theo con đường cổ điển mà biết bao nhiêu văn nhân trong biết bao thế kỉ đã xây đắp; con đường ấy vừa hợp với tính cách của ngôn ngữ, vừa hợp với tài năng người Tàu. Tóm lại, ông cho sự dùng bạch thoại bây giờ chỉ là một giai đoạn tạm thời trong khi họ hăm hở học theo phương Tây để canh tân và tự cường; biền văn mới thật là có nghệ thuật.
Quan niệm ấy chưa chắc đã đúng, có lẽ chỉ do ông quá yêu âm nhạc của văn thơ Trung Quốc mà ước mong, tưởng tượng như vậy. Nhưng ta cũng phải nhận rằng không có tiếng nước nào nhiều nhạc như Hoa ngữ, cũng như Việt ngữ, và nếu ta không nên dùng lối văn biền ngẫu trong những bài phổ thông khoa học thì những lúc muốn gợi những tình cảm êm đềm, cũng rán viết cho du dương, khi trầm khi bổng, miễn là lời phải xứng với ý.
Ý rỗng mà lời chải chuốt, thì khác chi một bao bố thêu hoa? Người ta chê lời biền ngẫu chính vì lẽ ấy. Xin bạn đọc đoạn dưới đây trong bài Đánh bạc của Nguyên Khắc Hiếu:
“Người ta ở trong đời, khi nổi khi chìm, lúc may lúc rủi, không rồi lại có, đầy rồi lại vơi, lên lên xuống xuống như cây thụt máy tàu. Tiền chôn bạc chứa chưa là giàu, nhà gianh vách nát chưa là nghèo: võng lọng ngựa xe chưa là vinh, xiềng xích gông cùm chưa là nhục. Những cái đó chỉ như một ván tố tôm, một cái búng quay, một con xóc đĩa, làm cho ta đương mừng hóa lo, đương buồn hóa sướng, say mê chìm đắm khóc hão thương huyền”.
Lời thiệt du dương, khi lên khi xuống nhịp nhàng lắm, nhưng ý rỗng thôi là rỗng! Ý tầm thường mà cố gò bằng trắc như vậy thì chẳng thà viết:
“Người ta ở đời, khi nổi khỉ chìm, lúc may lúc rủi, y như trong một canh bạc”
vừa gọn, vừa đủ nghĩa, vừa tự nhiên.
Bạn cũng đừng nên dùng lối vè sau này của Nguyễn Bá Trác, đương văn xuôi lại xen vô bốn câu song thất lục bác:
“Tôi trọ gần ngay bên sông Tần Hoài, buổi trời tây ác lặn, thuyền hoa đầy sông, nào là son phấn, nào là sinh ca. Hơi gió thổi đêm khuya hiu hắt, một vừng trăng trong vắt lòng sông, tiếng tranh tiếng địch càng nồng, như nghe tiên nhạc não nùng bên tai. Khiến người dưới nguyệt bên lan, ai chẳng say vì tình, mê vì cảnh, nếu thực nghe những khúc (Hậu đình hoa) thì xúc lòng di hận còn đến đâu nữa”?
(Hạn mạn du kí)
7
Bạn chỉ cần tránh đừng viết những câu thọt, những câu nhát gừng, cũng đừng viết những câu dài quá mà không có lấy một dấu phết, làm người đọc phải hết hơi, hổn hển. Nếu bạn lại rán sửa lời cho có chút nhạc, như hai đoạn dưới đây, một của Hư Chu, một của Võ Đình Cường, thì bạn đã thành công một cách khá vẻ vang trong nghệ thuật luyện văn rồi vậy. Nào, ta cùng nghe thanh âm của dĩ vãng văng vẳng đưa lại.
Dương Công, một vị bố chính thanh liêm, rất yêu hoa mai, nói:
“Yêu hoa không cứ gì riêng ta. Cổ nhân đã có nhiều người. Người thì coi hoa như bạn. Người thì đãi hoa như khách, về sự lựa hoa mà chơi, có người ưa hoa sen, gọi là hoa quân tử. Có người thích hoa đào, gọi là cố tri. Có người mến hoa lan, gọi là hoa vương giả. Nhung với ta, thì hoa mai mới chính thật là một thứ danh hoa đệ nhất, đáng làm bậc chị hết thảy mọi loài sắc hương, Còn gì thanh thú cho bằng một gốc mai già cằn cỗi có mấy cành trụi lá, khẳng khiu như cẳng chiếc hạc vàng? Còn gì tinh khiết cho bằng mấy cành hoa mỏng manh như giấy lụa và trắng trong như ánh tuyết? Ấy là chưa kể đến chỗ hương mai không kiêu căng quá như hương lan, không nồng ngát quá như hương sen, và cũng không như hương hoa cố nhân, thường là đạm mạc đến vô tình!”
Vì có quan niệm về hoa mai như vậy, quan bố chính họ Dương vẫn ao ước có một cái vườn mai thật quí để thưởng thức.
Song buồn thay, đang kỳ chức vụ thuyên chuyển khi đó khi đây, nào có nhất định ở nguyên chỗ lại đâu mà lo gây trồng chi cho uổng!
Vả lại giống mai rất khó ương, và kể từ khi chiết được giống, cũng phải chờ bốn năm năm, cây mới bắt đầu trổ nụ. Trong khoảng thời gian dài đặc ấy, đã dám quyết đâu chẳng có sự đổi thay trên bước hoạn đồ?
Bởi vậy, ngày nhận chiếu về trí sĩ trước kỳ hạn, cụ rất mừng vì thấy từ nay đã được thảnh thơi mà yên trí tự chiều theo điều sở thích.
Cái công việc đầu tiên khi đã trở về làng, là sửa sang một phòng sách nghìn pho và gây một vườn mai trăm gốc.
Tin ấy đồn đi, những người quanh vùng tranh nhau đem giống mai đến dâng hoặc bán. Trong vòng hai tháng, hoa viên nhà Dương công đã có đủ trăm gốc mai, gồm ba thứ hồng, hoàng và bạch. Rồi nhờ nhiều công phu bón tưới, bốn năm sau, rặng mai đã lạc đạc đâm bông. Lại qua bốn năm nữa, thì trừ một gốc trồng ở phía Đông, chín mươi chín cây mai nọ đã hoàn toàn trổ hoa rực rỡ vào một mùa xuân đúng thời tiết”
Hư Chu (Nam Hải truyền kỳ)
Tác giả xuất bản (1953). P. Văn Tươi phát hành.
Và đây, xin bạn thưởng thức bản nhạc huyền bí của quê hương Phật Tổ, Đức Thích Ca, khi chưa đắc đạo, gặp một đoàn tu khổ hạnh, hành hạ thân họ đến tê mê, để diệt cảm giác, thấy cách tu luyện ấy không có hiệu quả, bèn hỏi họ:
“Ôi! đời người đã đau đớn lắm rồi, sao các người còn cố làm thêm đau đớn nữa?
Một người trả lời: Trong kinh có dạy, nếu một kẻ tu hành hạ thân xác cho đến nỗi không còn biết đau đớn, khổ nhọc là gì nữa, thì tâm hồn người đó sẽ thoát khỏi nhục thể mà lên cõi trời, như một làn khói bay cao lên mấy tầng mây xanh khi củi đã cháy trong lò.
Đức Thích Ca nhìn lên trời, chỉ một đám mây đang bay. Làn mây nhẹ trôi trên trời kia, vẫn biết là ở tự những làn sóng rào rạt trong biển cả, nhưng nó lại phải dỏ dần từng giọt xuống lại trần gian, chảy qua những kẽ đá, đường lầy, hiệp nhau lại làm thành sông thành hói để rồi lại lao mình ra biển cả. Tương lai và hạnh phúc của các người, sau khi đã trải qua bao nhiêu khố hạnh, biết có thoát khỏi cái luật xoay vần ấy chăng? Cái gì đã lên thì phải xuống, đã đến thì phải đi. Sau khi đã mua được cõi trời với bao nhiêu xương máu trong chợ đau thương mà các người đã tạo lấy, tôi chắc rằng rồi các người sẽ trở về với đau thương, khi kỳ hạn ở cõi trời đã hết. Bởi thế, tôi khuyên các người hãy bỏ những trò nguy hiểm ấy đi. Tâm hồn trong sáng và thanh cao phải cần có một thân thể trong sạch và cường tráng để nương tựa. Sao các người lại đánh đập, phá phách thân thể cho đến nỗi nó phải bị kiệt quê, phải gục ngã giữa đoạn đường dài như một con ngựa bất kham ngã quỵ dưới sức chở nặng khi chưa đến đích?”
Võ Đình Cường (Ánh Đạo Vàng)
Gustave Flaubert nói: “Những câu nào viết hỏng thì đọc lớn tiếng không được; nó làm ta nghẹt thở và tim ta khó đập”. Viết xong một đoạn, ông thường liệng bút lông ngỗng vào một cái đĩa rồi đưa cao trang giấy lên ngang mày, ông lớn tiếng ngâm để nghe tiết tấu câu văn, bỏ dấu phết cho xác đáng và sắp đặt lại các thanh âm. Muốn cho văn êm đềm, bạn phải chịu tốn công như ông.
TÓM TẮT
1.- Chúng ta ghét lối biền ngẫu vì nó dễ làm cho ta mắc tật lời êm mà ý rỗng. Nhưng ta vẫn nên khéo dùng những đặc tánh của Việt ngữ về âm thanh đề giúp lời được du dương vì văn để đọc lớn tiếng mà thơ là để ngâm.
2.- Ta phải tập bình văn, ngâm thơ để luyện tai: tránh nhũng lỗi điệp âm, để ý đến khổ nhạc và bằng trắc.
Tuy nhiên lời có lúc cần phải mạnh mẽ. Đó là đại ý trong chương sau.
Chú thích:
[1] Ông Hư Chu căn cứ vào câu này của Trung Quốc: “Thưỡng thanh: cao hô mãnh liệt cường” và bảo âm đó phải đọc là thưỡng.
[2] Phan Văn Hùm; do Bùi Đức Tịnh dẫn trong Văn phạm Việt Nam (P. Văn Tươi xuất bản) 1952.
[3] 4] Những tự mẫu trong hàng này đọc theo giọng Pháp.
[5] Đọc theo giọng Việt.
[6] Bốn câu thơ này Hồ Hữu Tường trích dẫn trong cuốn Lịch sử văn chương Việt Nam. Theo tôi, đang ương thì đúng hơn là đang ươm.