← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XIII Ý DỒI DÀO VÀ LỜI MẠNH MẼ

1.- Làm sao cho văn khỏi khô khan.

2.- Một lỗi nên tránh:

Đừng cứ mỗi tiếng lại cho kèm theo một tiếng bổ túc.

3.- Phép đối.

1. Hai quan niệm trái nhau.

2. Phép đối của người Pháp.

3. Công dụng của phép đối.

4. Thế nào là phép đối?

4.- Phép điệp ngữ.

5.- Phép đảo ngữ.

6.- Phép ngoa ngữ.

1

Nếu bạn viết:

“Cảnh có một dòng suối, một nhịp cầu và một con đường. Bên đường có một ngôi mồ hoang” thì văn của bạn sẽ khô khan, đọc không hứng thú. Vậy bạn phải thêm ít nhiều tiếng để tả những chi tiết của cảnh ấy. Nước dòng suối chảy ra sao? Hình nhịp cầu thế nào? Cỏ trên ngôi mộ tươi tốt không?... Bạn suy nghĩ, tìm tòi rồi hạ bút:

Nao nao dòng nuớc uốn quanh,

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Sè sè nắm đất bên đàng.

Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

(Nguyên Du)

Lời của bạn đã hết khô khan và thêm nhiều nét vẽ linh động. Như vậy là nhờ bạn đã dùng những tiếng để tả hình và sắc: nao nao, uốn quanh, nho nhỏ, sè sè, dàu dàu, nửa vàng nửa xanh.

- Khi tôi nói:

“Nàng Kiều nhìn chung quanh thấy cảnh nào cũng buồn” bạn có cảm động chút nào không? Có thấu nỗi buồn của nàng ra sao không?

Nhưng nếu tôi viết:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ dàu dàu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ảm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

(Nguyễn Du)

thì chưa ngâm xong, chắc bạn đã nhiễm ngay cái buồn thấm thía của kẻ bạc mệnh. Lời của tôi cụt ngủn mà ý của Tố Như dồi dào, khác nhau ở chỗ ấy. Tiên sinh đã dùng một ý “nhìn phong cảnh chung quanh” mà gây ra được bốn ý, mỗi ý thuộc về một cảnh: cảnh cánh buồm thấp thoáng, cảnh hoa trôi trên nước, cảnh nội cỏ dàu dàu, cảnh mặt duềnh sóng vỗ.

Bạn tả một người đàn bà trông trăng nửa vành mà nhớ đến chồng đương đi xa:

Nàng nhìn trăng mà nghĩ: “Trăng kia đang soi đường cho chồng ta đi”.

Như vậy lời và ý cũng đã đẹp rồi đấy, nhưng nếu bạn kiếm thêm một ý đối với ý ấy thì bạn có thể viết được như Nguyễn Du:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

Vậy muốn cho văn khỏi khô khan, ta phải kiếm thêm chi tiết, thêm những tiếng bổ túc[1] để tả.

Nhưng bạn đừng nên cứ một tiếng chính lại kèm theo một tiếng bổ túc.

Trong đoạn sau này chẳng hạn:

“Chăm chú vào công việc làm, Tân không để ý gì đến cảnh vật chung quanh. Chàng cũng không thấy mệt nữa, tuy ánh nắng chiếu trên lưng nóng át, và mồ hôi từng giọt dỏ trên trán xuống. Tân chú ý đưa cái hái cho nhanh nhen, mỗi lần bông lúa rung động chạm vào mặt vào người, mùi lúa chín thơm lại phảng phất lẫn với mùi rạ ướt mới cắt. Mùi thơm ấy làm cho chàng say sưa như men rượu”.

Thạch Lam (Gió đầu mùa)

nếu bạn cố ý kiếm cho mỗi tiếng một tiếng bổ túc chỉ hình dung, thể cách, như:

“Chăm chú vào công việc nặng nhọc đương làm, Tân hăm hở siêng năng không để ý gì đến cảnh vật êm đềm, rực rỡ ở chung quanh hết. Chàng cũng không thấy mệt nữa, tuy ánh nắng gay gắt, nóng át chiếu lên lưng tròn, mập và rám nắng của chàng, và mồ hôi mặn như muối từng giọt lớn, đều đều dỏ từ trên trán đã có nhiều vết nhăn. Tân tận tâm, chú ý đưa cái hái hình vòng cung, sắc như nước, cho nhanh nhẹn như chớp: mỗi lần bông lúa chín vàng thơm ngào ngạt lại phảng phất lẫn với mùi rạ ướt, ngai ngái mới cắt xong một cách vội vàng. Mùi thơm đặc biệt, khó tả ấy làm chàng thanh niên chất phác say sưa lạ lùng như men rượu tối tân hôn”.

Nếu bạn thêm như vậy thì bạn đã chẳng tô điểm cho nguyên văn được chút gì mà còn bôi nhọ thêm nữa.

“Một vài thằng con con” theo gót một văn nhân thì làm tăng phẩm giá cho chủ, nhưng nếu “tên lính nào cũng dắt díu một vài tiểu đồng”[2] thì bộ đội đó sẽ làm trò cười cho thiên hạ.

3

1.- Ở trên tôi đã khuyên khi tìm được một ý rồi, nên kiếm thêm một ý nữa đối nó để cho văn tứ được thêm dồi dào. Tôi tưởng nên bàn qua về phép đối, một quy tắc hành văn đặc biệt của những nước cùng chịu văn hóa Trung Hoa.

Óc người ta thiệt kỳ dị! Có những điều tôi học cả chục lần mà vẫn quên, còn câu chuyện sau này thì tôi nhớ hoài. Hồi đó tôi 13-14 tuổi, cũng thích bắt bươm bướm rồi ép trong sách như những học sinh nhỏ khác. Một hôm, một ông bác tôi ngắm những xác bướm ấy, hỏi tôi:

- Bướm đẹp ở chỗ nào, cháu biết không?

Tôi đáp:

- Thưa bác, nó đẹp vì cánh nó rực rỡ.

- Phải. Nhưng cũng vì lẽ 2 cánh đối nhau nữa. Này cháu coi: Chấm đen bên này đối với chấm đen bên kia, vệt vàng này đối với vệt vàng nọ... Mà cháu có nhận thấy rằng trong vạn vật, đều có luật đối đó không? Chim có 2 cánh, thú có 4 chân, người có 2 tay, 2 chân. Những vật không có cái nào khác đối với nó, thì tự trong nó cũng tiềm tàng cái luật đối, như đầu người, thân cây, chiếc lá nửa bên phải y như nửa bên trái... Tạo hóa thiệt đa văn! Mà văn chương muốn cho hay, cũng phải theo luật đối của tạo hóa. Lối văn Tây bây giờ không đáng kể là văn.

Lúc ấy, tôi còn nhỏ, chỉ biết “dạ, dạ”, chứ chưa đủ trí để xét những lời đó đúng hay không, nhưng cũng chưa dám tin hẳn.

Gần đây, đọc cuốn Việt Nam văn học sử trích yếu của Nghiêm Toản, tôi thấy ông chê phép đối là không tự nhiên.

Ông viết:

“Đọc thơ mới, dù về ý hay lời, ta có cảm giác tự nhiên, thành thực bao nhiêu thì đọc thơ cũ, ta có cảm giác theo quy củ, ước thúc, phải tốn công bày lời xếp ý bấy nhiêu, thành ra ta vẫn thấy nhiều gọt giũa quá. Chúng tôi xin kể một câu chuyện không chút mảy may trào phúng:

Một hôm cùng dăm ba anh bạn ngồi xuống bàn về văn chương nghệ thuật, có người ngâm mấy câu trích trong Chinh phụ ngâm khúc, tả người đàn bà trèo lên lầu, nhìn bốn phương trời: Đồng, Tây, Nam, Bắc. Tạo vật bày ra bốn bức họa đẹp tuyệt trần. Người ngâm ngâm xong, ai cũng khen hay, duy có bạn phản đối rằng:

“Tại sao lại bốn mà không ba? Tôi bực mình với con số chẵn ở trong nghệ thuật người mình: vế thì phải long, li, quy, phụng, hay tùng, cúc, trúc, mai; chơi thì phải thơ, vẽ, đàn, cờ; cho đến cô Kiều “trước lầu Ngưng Bích khóa xuân” cũng phải buồn đủ trong bốn cảnh!

Tôi đọc những câu 3-4, 5-6 trong một bài thơ cũ luôn luôn có cảm giác đoán trước được chữ gì sẽ tới hay bắt buộc chữ gì phải tới, y như người đứng trước bàn thờ bày cỗ cúng, ví phỏng đem che hẳn đi một nửa tôi cứ trông nửa bàn bên này có đĩa giò, đĩa bóng, đĩa thịt gà, bát mực... là tôi đoán được vị trí đối xứng của những đĩa giò, bát bóng, đĩa thịt gà, bát mực... bày ờ phía bên kia.

“Phải, tại sao lại không ba, cho ta thấy thiêu thiếu, thèm thèm, nhơ nhớ một cái gì, như bản nhạc “hợp tấu” còn dở dang, khiến người ta chờ đợi khát khao những âm điệu tuyệt vời, khát khao rồi dùng tưởng tượng tự đi tìm lấy những tiếng trúc tiếng tơ của Tiêu Lang, Lộng Ngọc”.

Hai quan niệm tân, cựu trái hẳn nhau đó, quan niệm nào xác đáng? Theo thiển ý, cả hai đều thiên lệch.

Phép đối làm cho văn được đẹp hoặc mạnh, nhưng không phải chỉ có đối mới hay. Cổ phong có đối đâu, loại cổ văn có đối đâu mà nhiều bài vẫn được truyền tụng. Chính trong thể Đường luật những thi sĩ đại tài cũng đôi khi bỏ phép đối và đối chọi quá chỉ đáng là trung phẩm. Như trong 2 câu thơ sau này của Lưu Vũ Tích đời Đường mà các nhà cựu học khen là tuyệt bút:

“Nhân thế kỉ hồi thương vãng sự

San hình y cựu chẩm hàn lưu[3].

2 tiếng “y cựu” đâu có đối với 2 tiếng “kỉ hồi”.

Muốn cho đối, tôi tưởng cũng không khó, chẳng hạn thay 2 tiếng “thiên tuế” vào 2 tiếng “y cựu”, nhưng thơ sẽ hết hay một phần lớn vì nỗi cảm khái sẽ kém nhiều.

Vậy phép đối không phải là cần thiết. Nhưng bảo hễ đối là không tự nhiên thì cũng sai. Đọc 2 câu thơ sau này của Quách Tấn trong bài Trơ trọi, tôi thấy tuy đối mà vẫn tự nhiên:

Sầu mong theo lệ, khôn rơi lệ,

Nhớ gởi vào thơ, nghĩ tội thơ!

Chính vì lời đã tự nhiên lại đối chỉnh, nên 2 câu đó rất hay, cảm tôi rất mạnh.

Đã đành, nhiều khi cũng nên đừng nói hết mà để độc giả “thèm thèm, nhớ nhớ” một cái gì, nhưng đó cũng là một phép hành văn như phép đối thôi, chứ không phải là một quy tắc bất di bất dịch. Quy tắc hành văn nào cũng vậy, khéo dùng và phải chỗ thì hay, vụng dùng mà sái chỗ thì dở, một đôi khi dùng tới thì độc giả thích, dùng hoài thì người ta chán. Có lẽ chỉ chân lý ấy mới tuyệt đối.

Chắc Nghiêm Toản cũng hiểu vậy, cũng nhận rằng văn đối nhiều khi rất đẹp, nên ngay trong đoạn chỉ trích lối đối mà ông cũng - vô tình hay hữu ý? - dùng lối ấy. Bạn không nhận thấy ư?

Ông vừa mới viết: “Tại sao lại bốn mà không ba? Tôi bực mình với con số chẵn ở trong nghệ thuật người mình” thì mười hàng sau, ông dùng 2 con số chẵn: bốn và hai. Ông kể 4 món cúng: “đĩa giò, bát bóng, đĩa thịt gà, bát mực” và 2 nhạc sĩ: Tiêu Long và Lộng Ngọc.

2.- Người Pháp cũng có phép đối.

La Bruyère nói: “Đối là đem hai sự thực cho chọi nhau để nó làm sáng rõ lẫn cho nhau”[4].

Từ Montaigne cho tới Taine và các văn sĩ hiện đại, thời nào cũng dùng lối hành văn ấy. Nhưng nổi tiếng nhất là Victor Hugo. Thi sĩ này đã đối rất tài tình trong đoạn dưới đây viết khi con gái ông về nhà chồng:

Aime celui quy t’aime et sois heureuse en lui.

Adieu! sois son trésor, ô toi qui fus le nôtre;

Va, mon enfant chéri[5], d’une famille à l’autre,

Emporte le bonheur et laisse-nous l’ennui.

Ici l’on te retient; là-bas on te désire:

Fille, épouse, ange, enfant, fais ton double devoir

Donne-nous un regret, donne leur un espoir

Sors avec une larme, entre avec un sourire.

3.- Nhưng phép đối của họ kém xa phép đối của mình, không phải tại văn sĩ của họ thiếu tài mà tại đặc tánh của tiếng Pháp không được hợp với phép đối như tiếng Việt. Việt ngữ có rất nhiều phần tử đơn âm lại phân biệt bằng, trắc, nên đối dễ hay.

Đối là một phép kiếm ý và làm cho hơi văn mạnh mẽ bắt người đọc phải chú ý tới.

Một vị nguyên súy nếu nói với sĩ tốt:

“Các người trông thấy nước nhục mà không biết thẹn, cứ vui vẻ cờ bạc và chọi gà, nếu có giặc đến thì lấy gì mà chống với chúng, gia quyến các người lâm nguy và các người còn mang tiếng xấu mãi mãi nữa”

thì lòng sĩ tốt có phấn phát chút nào không?

Nhưng nếu chịu kiếm thêm nhiều hình ảnh rồi đặt lời cho đối như Trần Quốc Tuấn thì chẳng những người đương thời nghe rồi nghiến răng trợn mắt, muốn nuốt sống quân thù, mà ngàn năm sau, đọc tới, cũng nắm tay, bặm miệng, máu sôi trong tim nữa:

“Nay các người trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc sỉ mà không biết thẹn; thân làm tướng phải hầu quân giặc mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến ngụy sứ mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến với vợ con; hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham về săn bắn mà quên việc binh; hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc đến thì cựa gà trống sao cho đâm thủng được áo giáp, mẹo cờ bạc sao cho dùng nổi được quân mưu; dẫu rằng ruộng lắm tiền nhiều, thân ấy nghìn vàng không chuộc; vả lại vợ bìu con díu, nước này trăm sự nghĩ sao; tiền của đâu mà mua cho được đầu giặc; chó săn ấy thì địch sao nổi quân thù; chén rượu ngon không làm được cho giặc say chết; tiếng hát hay không làm được cho giặc điếc tai; khi bấy giờ chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc của các ngươi cũng hết; chẳng những là gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng nguy; chẳng những là ta chịu nhục bây giờ mà trăm năm về sau tiếng xấu hãy còn mãi mãi, mà gia thanh của các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng nhục: đến lúc bấy giờ, các ngươi dẫu muốn vui vẻ, phỏng có được hay không?”

Trần Trọng Kim dịch

Nếu Quản Trọng nói: “Bão Thúc là tri kỉ của tôi” thì lời lẽ tầm thường lắm, không ai để ý cả. Trái lại câu: “Sinh ra ta là cha mẹ, biết ta là Bão Thúc”[6] đã lưu truyền hơn hai ngàn năm nay trong 5-6 dân tộc mà dân số chiếm trên một phần tư thế giới. Được vậy là nhờ Quản Trọng đã đem hai ý ra đối nhau, đã so sánh công tri kỉ với công sinh thành.

Phép đối làm cho lời văn thêm trang trọng, du dương, nhất là giúp cho sự tương phản của hai cảnh, hai người nổi bật lên. Nếu không dùng nó thì khó tả được lòng hy sinh của sĩ tốt trong đoạn văn dưới đây:

“Kể thời chen chân ngựa, quyết giật cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mệnh bạc, nắm lông hồng theo đạn lạc tên bay; kẻ thời bắt mũi thuyền, toan cướp giáo giữa dòng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa mặc bèo trôi sóng vỗ.

Nguyễn Văn Thành (Tế trận vong tướng sĩ)

Hoặc cảnh cây ngã xuống để vờn sóng, sóng leo lên muốn vuốt cây, như trong hai câu thơ của Lê Thánh Tông:

Thà là cúi xuống, cây đòi sụt,

Xô xát trông lên, sóng muốn trèo.

hoặc nỗi niềm xa cách của đôi tình nhân, như trong bài thơ của Phạm Đan Phượng (Chiêu Lì) gởi cho Trương Quỳnh Như:

Bắc yến, nam hồng thư mấy bức,

Đông đào tây liễu khách đôi nơi.

Xin bạn hãy cùng tôi ngâm thêm ít câu đối lâm li mà người Âu không thể nào thưởng thức nổi hết cái hay:

Ba mươi sáu tuổi là bao tá!

Năm sáu đời vua thiệt chóng ghê!

Một tốp thơ sầu ngâm đã chán,

Vài be rượu nhạt uống ra gì.

……….

Phạm Đan Phượng (Tự thuật)

Tưởng câu năm nọ như ngày nọ,

Nghĩ đến bao giờ khóc bấy giờ.

Vô danh (Khóc linh cữu của vua Chiêu Thống)

Thuở lâm hành, oanh chưa bén liễu,

Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca.

Nay quyên dã giục oanh già,

Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.

Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió,

Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông.

Nay đào đã quyến gió đông,

Phù dung lại nở bên sông bơ sờ.

(Đoàn Thị Điểm)

Tôi ao ước sẽ có ai sưu tầm hết cả những câu đối hay trong văn cổ như Nguyên Văn Ngọc đã sưu tầm những đào nương ca. Để những chuỗi ngọc đó thất lạc lần đi, thật là đáng tiếc!

4.- Người Pháp không có đủ âm thanh như ta nên chỉ có phép đối ý, nghĩa là đem hai ý sánh với nhau, đặt làm hai vế. Hai vế đó thường dài ngắn không đều vì tiếng Pháp không đơn âm như Việt ngữ.

Ta chẳng những đối ý mà còn đối tiếng (tiếng đồng loại đặt ngang với nhau) và đối vế bằng trắc nữa (như vế trên bắt đầu là bằng thì vế dưới bắt đầu là trắc, hoặc ngược lại).

Những câu sau này của vua Tự Đức trong bài: Ngán sự đời, đối rất chỉnh về cả ba phương diện ấy:

Khôn dại cùng chung ba thước đất,

Giàu sang chưa chín một nồi kê.

Đến như hai câu:

Vụng đến mẹ mày đành có một,

Khéo như con Tạo cũng là hai.

trong bài Nhất vợ nhì Trời thì thực là khéo tuyệt: tiếng hai đối với tiếng một là chọi mà lại thích thực được cái ý “nhì trời” trong đầu đề[7].

Tuy phép đối khắt khe như vậy, nhưng nhiều khi ta chỉ cần đối ý thôi, không cần đối tiếng. Không ai không nhận hai câu dưới đây của Vũ Hoàng Chương là đối rất tài tình:

Kinh Phật chữ không là chữ sắc,

Kệ người ai tiến với ai lui.

mặc dầu kệ đây không phải là kinh kệ mà có nghĩa là mặc kệ.

Nếu lời sáo lại điệp ý thì đối chọi tới mấy cũng không có giá trị gì cả. Tú Xương đã mắc lỗi ấy khi hạ hai câu:

Dưới gốc mai già đành có một,

Bên chòm trúc hóa hẳn không hai.

(Người xinh cái bóng cũng xinh)

Đành đối với hẳn, có với không, một với hai, không thể chọi hơn được nữa, nhưng “đành có một” và “hẳn không hai” chỉ là một ý thôi, một ý rất sáo[8].

Đoạn văn xuôi của Nguyễn Khắc Hiếu trong bài “Đánh bạc”, tôi đã dẫn ở trang 238 lời đối với nhau và du dương lắm, nhưng đọc lên rất chán, chỉ vì ý rất nhạt nhẽo.

4

Muốn cho câu văn mạnh, muốn làm nổi bật một ý nào lên, ta có phép điệp ngữ, nghĩa là lặp lại nhiều lần một vài tiếng.

Về lối ấy, ta phải kể tài của Đoàn Thị Điểm và Nguyễn Du vào bực nhất. Ai không nhớ những vần não nùng của Chinh phụ ngâm trong đó nữ sĩ đã áp dụng một cách tuyệt khéo phép điệp ngữ?

Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,

Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông;

Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu!

……….

Chẳng hay muôn dặm ruổi dong,

Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng?

Lòng chàng ví cũng bằng như thế,

Lòng thiếp nào dám nghĩ gần xa?

Hướng dương lòng thiếp như hoa,

Lòng chàng lẩn thẩn e là bóng dương.

Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,

Hoa để vàng bởi tại bóng dương;

Hoa vàng hoa rụng quanh tường,

Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương.

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu,

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Tưởng khắp thế giới không có bản nhạc nào diễn được nỗi nhớ nhung của chinh phụ hơn nữa.

Trong truyện Kiều, Nguyễn Du ít dùng phép điệp ngữ hơn họ Đoàn nhưng chỗ nào đã dùng thì cũng thiệt tài tình:

Khi buồn bã thì:

Lại càng mê mẩn tâm thần,

Lại càng đứng lặng, tần ngần chẳng ra.

Lại càng ủ dột nét hoa,

Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài!

Khi nhớ mong thì:

Song sa vò võ phương trời,

Nay hoàng hôn đã, lại mai hôn hoàng.

Khi thương xót thì:

Tiếc thay trong giá trắng ngần,

Đến phong trần cũng phong trần như ai!

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót xa.

Khi sao phong gấm rũ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường!

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?

Lúc thì vui vẻ đề huề:

Khi gió gác khi trăng sân,

Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ;

Khi hương sớm, khi trà trưa

Bàn vây điểm nước, đường tơ họa đàn,

Lúc lại như nghiến răng oán hận:

Đã cho lấy chữ hồng nhan.

Làm cho cho hại, cho tàn, cho cân!

Đã đày vào kiếp phong trần,

Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi.

Làm cho nhìn chẳng được nhau,

Làm cho đày đọa cất đầu chẳng lên!

Làm cho trông thấy nhãn tiền,

Cho người tham ván bán thuyền biết tay.

Lúc thì chán ngán thân thể:

Phận bèo bao quản nước sa,

Lênh đênh đâu nữa, cũng là lênh đênh.

Bấy chầy gió táp mưa sa,

Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn!

Biết bao tình cảm đa được diễn một cách mạnh mẽ nhờ phép điệp ngữ dùng cực khéo.

5

Ở chương trên tôi đã nói Việt ngữ có ít phép đảo ngữ hơn tiếng Pháp. Chính vì vậy mà những tiếng được đảo trong văn thơ Việt Nam luôn luôn có một giá trị đặc biệt, như:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng.

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

(Trần Tế Xương)

Hai tiếng lặn lội và eo sèo đặt ngược, mạnh mẽ làm sao!

Đoàn Thị Điểm đã khéo đưa những tiếng oanh đôi và bướm đôi ở dưới lên trên:

Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,

Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa.

làm cho ta trông ngay thấy cảnh đôi oanh đôi yến mà liên tưởng tới nỗi cô đơn của người chinh phụ.

Nguyễn Du cũng thường dùng lối hành văn ấy như trong câu:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

hoặc:

Đau đớn thay, phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Nhưng không phải đưa lên đưa xuống làm sao cũng được. Văn phạm Pháp rất dễ dãi về quy tắc đảo ngữ mà cũng không cho phép lão Jourdain nói: Mourir vos beaux yeux, belle marquise, d’amour me font, hoặc: Me font vos yeux beaux, mourir, belle marquise, d’amour; huống hồ là văn phạm Việt Nam.

6

Phép ngoa ngữ là phép nói quá sự thực rất nhiều. Không ai chê phép ấy trong những câu sau này mà lại còn cho là một nghệ thuật nữa:

Chìm đáy nước, cứ lờ đờ lặn,

Lửng da trời, nhạn ngẩn ngơ sa.

(Ôn Như Hầu)

Chừng nào đá nổi, rong chìm.

Muối chua, chanh mặn, mới tìm được em.

(Ca dao).

hoặc:

Duyên sao các cớ hỡi duyên,

Cầm gương gương tối, cầm vàng vàng phai!

Một thi sĩ vô danh châm biếm sự mù quáng của anh chồng quá yêu vợ mà đặt những câu hát:

Đêm nằm thì ngáy ó o,

Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà,

Đi chợ thì hay ăn quà,

Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.

Trên đầu những rác cùng rơm,

Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.

đã làm cho chúng ta mỉm cười một cách khoái trá.

Chỉ khi nào nói quá để cố ý đánh lừa người khác như các nhà tuyên truyền ở thời đại văn minh này hoặc nói quá một cách thô tục, vô duyên như đoạn tả cô Ba Nữ của Lê Văn Trương (trang 111) thì mới không nên.

TÓM TẮT

1.- Muốn cho ý tứ dồi dào, văn khỏi khô khan. Phải hỏi câu: “Cách nào?” để kiếm thêm chi tiết, tìm những tiếng bổ túc để tả; suy nghĩ hoài về một ý cho tới khi nảy ra được những ý trái với nó hoặc phụ với nó.

2.- Nhưng đừng cứ mỗi tiếng lại kèm theo một tiếng bổ túc.

3.- Muốn cho lời mạnh mẽ, phải dùng phép đối, phép điệp ngữ, phép đảo ngữ và phép ngoa ngữ.

Chú thích:

[1] Tôi gọi chung là bổ túc những tiếng để thêm nghĩa cho những tiếng khác như adjectif, adverbe, complément.

[2] Quitilien

[3] Hai câu ấy là cặp luận trong bài Kim lăng hoài cổ. Họ Lưu tả cảm khái của ông trước cảnh biến thiên của Kim Lăng tức thành Nam Kinh bây giờ. Tôi dịch gượng là:

“Nhân thế mấy lần thương việc cũ,

“Bóng non như trước gối dòng sông.

Hai tiếng “bóng non” hơi ép, lại dịch thiếu tiếng “hàn” (hàn lưu = dòng nước lạnh).

[4] Une opposition de deux vérités qui se donnent du jour l’une à l’autre.

[5] Đáng lẽ tiếng này có chữ e (giống cái) thì phải hơn.

[6] Sinh ngã giả, phụ mẫu; tri ngã giả, Bảo Thúc.

[7] Đối chỉnh là tiếng cùng loại đối nhau, như khôn dại đối với giàu sang. Đối chọi là khôn đối với dại, trắng đối với đen, trời đối với đất.

[8] Những thí dụ trong đoạn này đều mượn của Hư Chu trong bài Những câu thơ đối ngẫu (Việt Thanh ngày 16-6-52).